ĐÀN GIỜ MÃO NGÀY 10 THÁNG 12 NĂM 2017
Ngày 23 Tháng 10 Đinh Dậu
Pháp Âm #107. Nếu màn hình không hiển thị xin bấm vào đường truyền này: https://youtu.be/Bur5f4uXwyA
Pháp
Âm #107
“Chắt
chiu cầu bài pháp thiên đài
Nhất
tâm sang sửa mặt mày
Chiều
nay, mai muốn pháp bài Huyền Thiên
Trên
đảnh thượng luận phiên thượng cổ
Chúc
con hiền về chỗ thành đô
Lo
cho hiếu mẹ điểm tô
Rồi
nhín một chút nam mô lịnh truyền
Ở
ngôi gia có gác tư riêng để tịnh
Ngồi
xếp bằng chánh định ma ha
Con
hiền đừng có sợ ma
Để
Ông giúp sức thật thà sửa sang
Năm con gà Phật Hoàng luân chuyển
Đất
Láng Linh cổ điển Ông Hai
Chiều
nay định số an bày
Cho ai biết được PHẬT NGÀI giáng lâm
Thân phàm XUẤT THẾ ĐẦU NĂM
Đi hơn tuần lễ dập bầm giầy da
Vui
buồn hay hỡi cổ già
Khi
con về tận ngôi nhà có sao
Người
tu mi một màu chánh định
Thì
làn hơi này thiện tính Sài Gòn
Bửa
nay có hai vị đạo con
Đến
gieo thiệu cũng còn đắn do
Hoàn
cảnh ấy hay ho đoạn cuối
Chúc
Ca Li mát suối trong veo
Hai
người tạm ở Hòn Heo
Còn
ta tiếp tục leo trèo núi non
Về
hai lần thân con bị bịnh
Ở
lại hai ngày nhận định hiền lâm
Bây
giờ trời đã chuốc tâm
Ngày
mai lui gót đặt thầm thành đô
Được
rồi đó nam mô lui gót
Đức
tính này nơi chót xem nhìn
Bây
giờ vui vẻ đệ huynh
Cho
nên nòi giống của mình cao thanh
Buồn
chi huynh đệ dựng quanh
Ngày
mai buồn tẻ vắng Ngọc Lành thành đô
Còn
Ông như thể điểm tô
Vẻ
thêm son phấn đem vô triều đình
Chị
em em chị hiện tình
Có
duyên có phận ráng mình mà nghe
Rấp
tâm thì Phật chở che
Ngày
nay con ráng đây nè vị ngôi
Năm
con gà tiếng còi nó gáy
Biết đâu chừng nó kêu đại ó o
Con
hiền đừng quá âu lo
Làm
tròn bổn phận Phật lo ngôi nhà
Tu
hoài trẻ mãi không già
Coi
chừng năm Dậu con gà cửa băng
Vì
trong ngoài nước giựt chị Hằng
Làm
quên Chú Cuội cung trăng Nam Kỳ
Đến đây tạm dứt thơ thi
Tháng Giêng ngươn thượng vậy thì cho con [đi Mỹ vào Tháng Giêng Mậu Tuất]
Bây
giờ trong cảnh chèo thoàn
Về
nơi về chỗ mong con tìm về
Mình
buồn mình mở mình nghe
Mình
vui mình xách vỏ [vỏ vọt = tắc ráng] chạy te lên giồng
Ca
Li cũng có đạo đồng
Về
đây nghĩ cánh trong lòng Kim Hưng
Chúc
con trẻ nằm khoanh có của
Để
sau này sáng sủa mặt mày
Đến
đây dứt pháp Ông Hai
A
Di Đà Phật chứng ngay cơ mầu.”
Chú
Thích: Ông Hai Láng Linh là nói đến “Cậu Hai Nhu” năm xưa, tức ông Trần Văn
Nhu. “Ông sinh ra trong thời buổi
đất nước bước vào giai đoạn suy yếu tột độ và thực dân Pháp đang đe dọa xâm lược
nước ta. Giữa lúc ấy, triều Nguyễn ra lệnh thực hiện các chính sách đồn điền tại
An Giang. Gia đình ông là một trong các di dân lập làng đến An Giang. Lần đầu
tiên Phật Thầy Tây An (tên thật Đoàn Minh Huyên) và Đức Cố Quản Trần Văn Thành
đã đến trung tâm Láng Linh (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú) lập một
trại ruộng để khai khẩn đất hoang, đặt tên là Bửu Hương các (Bửu Hương: tên đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương ; các: ruộng), người dân quen gọi là trại ruộng Phật Thầy (1)
(ngày nay ghi là trại ruộng Bà Nguyễn Thị Thạnh ?!). Tài liệu truyền miệng cho
biết: Cậu Hai Nhu rất giỏi chữ Nho (chữ Hán) và giỏi võ nghệ. Nhưng không thấy
đề cập mức độ khai khẩn vùng đất này. Thậm chí đóng vai trò như thế nào trong
cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa ? Chúng ta chỉ nghe nói đến Trần Văn Chái (Tư Chái) và
các ông Đội. Nhưng từ sau cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thì trong gia đình Đức cố Quản
Trần Văn Thành có hai người đóng vai trò quan trọng trong việc khai phá và mở
mang làng Thạnh Mỹ Tây huyện Châu Phú sau này: Bà Nguyễn Thị Thạnh (vợ Quản Cơ
Trần Văn Thành) và con trưởng nam: Trần Văn Nhu. Sau cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa,
gia đình Đức Cố Quản Trần Văn Thành về trú ngụ tại Bửu Hương các mà xưa kia Đức
Cố từng khai phá. Vào thời buổi đó chưa có kênh xáng Vịnh Tre (kênh Tri Tôn do
Pháp đào vào những năm 30 của Thế kỷ XX) thông vào. Con đường duy nhất đi vào Bửu
Hương các lúc này chỉ có rạch Cái Dầu. Sống trong điều kiện khắt nghiệt, hầu
như bị cô lập vớí bên ngoài. Nhưng người trong dòng tộc, gia đình và các nghĩa
binh kể cả tín đồ trong đạo vẫn trụ được nơi miền đất Láng khắt ngiệt cũng là
điều dễ hiểu. Dù không bạo động chống Pháp, nhưng tinh thần không hợp tác với
giặc là quan niệm sống của người dân đất Láng vẫn được duy trì khá lâu đối với
cư dân vùng đất mới. Lúc đầu nơi đây chỉ có vài gia đình. Về sau số dân trong
vùng tăng lên . Nguồn gốc đều là dân tứ xứ đến lập nghiệp. Thực tế cuộc khởi
nghĩa Bảy Thưa thất bại và bị đàn áp, nhưng dấu ấn ấy vẫn còn âm vang, người
ngưỡng mộ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn đến. Cuộc sống của Ông Hai Nhu không chỉ
bình thường, mà ông tiếp tục hành Đạo theo tôn chỉ của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương:
phát phù trị bệnh cho dân trong vùng và tiếp tục kết nạp tín đồ bằng phân phát
lòng phái, với tờ giấy vàng với bốn chữ son: Bửu Sơn Kỳ Hương. Lúc bấy giờ việc
phát phù trị bệnh lôi kéo tín đồ là việc làm nguy hiểm. Vì thực dân Pháp đã
nghiêm cấm Đạo Lành (Đạo Thành) hoạt động. Nhưng ông Hai Nhu bất chấp nguy hiểm
vẫn tiếp tục hành đạo. Nhiều người mộ đạo đến quy y và lập nghiệp. Xóm Láng ra
đời. Ho sống theo tinh thần “đói ăn rau, đau uống thuốc”. Mương Ông – Bà ( để
chỉ ông Hai Nhu và Bà Cố Quản) được đào để lấy nước uống và sinh hoạt, trồng
dâu nuôi tằm. Dần dần dân trong vùng nạo vét nối liền với rạch Cái Dầu. Năm
1899 bà Cố Quản qua đời, ông Trần Văn Nhu tiếp tục chuẩn bị xây dựng Bửu Hương
tự. Nhân ngày 22 tháng 2 ÂL (1913), kỷ niệm 40 năm ngày cuộc khởi nghĩa Bảy
Thưa thất bại, thực dân Pháp được mật báo, chúng bố trí lực lượng bí mật từ
Châu Đốc xuống Cái Dầu và tiến vào đất Láng đàn áp Bửu Hương tự. Qua cuôc bố
ráp ấy chúng bắt đi 83 người và triệt phá Bửu Hương tự. Cuối cùng chúng kết án
56 người và đài đi Côn Đảo 20 người. Ông Trần Văn Nhu trốn thoát (2). Ông được
người thân cận đưa ra Cái Dầu định đến Campuchia, nhưng không rõ lý do nào đó
ông quyết định về Cần Thơ và cuối cùng về Trà Bang (Rạch Giá) rồi mất tại đó
năm 1914 (3). Trong dân gian hiện nay có thói quen gọi Bửu Hương tự là
chùa Nhà Láng. Vì sao có tên gọi ấy ? Theo lời kể các vị bô lão ngày xưa muốn lập
làng phải có người đứng ra bảo lãnh và làng phải có đình thần. Vì vậy nhiều người
trong đất Láng muốn hợp thức hóa với chính quyền thực dân xin phép lập đình
làng Thạnh Mỹ Tây. Trên thực tế là xây dựng Bửu Hương tự. Nhưng do quy mô
chùa Láng lúc đó nhỏ, làm bằng tre lá. Theo quan niệm của Bửu Sơn Kỳ Hương là
tu tại gia nên chùa nhiều khi là nhà. Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng để tránh sự
dòm ngó của chính quyền thực dân nên gọi chùa Nhà Láng. Khi chính quyền đến xét
hỏi thì nói đây là nhà chứ không phải là chùa. Láng là xuất phát từ Láng Linh.
Vì vậy khi nói đến ông Trần Văn Nhu thì dân trong vùng quen gọi là ông Hai nhà
Láng. Suy cho cùng, đối với ông Hai nhà Láng không có những chiến công oanh liệt
như Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Nhưng ông đã để lại dấu ấn rất đặc biệt ở vùng
Láng Linh không phải từ việc phát phù trị bệnh mà chính là hành động nhân sinh:
quy tụ nhiều người đến trú ngụ và lập ra làng Thạnh Mỹ Tây. Ông là một trong những
người chủ trương xây dựng Bửu Hương tự mà nay trở thành di tích được xếp hạng
cho nhân dân trong vùng và khắp nơi đến chiêm bái và ghi ơn công đức của nghĩa
binh Gia Nghị và Quản cơ Trần Văn Thành. Ông xứng đáng được ghi ân như những
người có công khai hoang vùng Láng Linh và làm tiền đề cho sự phát triển
vùng sâu thuộc huyện Châu Phú sau này.” Trích nguyên văn bài
“Ông Hai Nhà Láng” của tác giả Võ Thành Phương đăng trên trang nhà của Bửu Sơn
Kỳ Hương Nguyên Thủy.
Pháp Âm #108. Nếu màn hình không hiển thị xin bấm vào đường truyền này: https://youtu.be/MRJ4mEkdppc
Pháp
Âm #108:
“Thản
nhiên không vướng khỏi khấn hương
Tâm
không cách biệt lý vô ngã
Thấy
không không thấy mới tòa chương
Tâm
đắc huệ khai không mà trụ
Trụ
không không trụ giống khỏi ươn [ươm]
Vạn
vật quanh ta đều báo ứng
Ngó
mà không ngó lòng chẳng vương
Muôn
nẻo khó khăn tâm làm chủ
Tâm
ngó rất ngay ấy Phật đường
Phàm căn chưa dứt bao điều khổ
Bởi
vì vạn vật kéo tai ương
Mắt
huệ thần minh không ngẫm tới
Tự
đến tự đi chẳng đo lường
Khi
xưa các Tổ ngộ y pháp
Tâm
tục như như huệ thông thương
Tâm
bình tâm định khai sáu thức
Khỏi
phải lo âu kiếp nắng sương
Một
chiều ngáp mãi cỏ hồn thân
Ngày
nay trung ương sắp đến gần
Chuyển
xây thanh điển phận nhiệm vụ
Tịnh
huệ trí khai lãnh mọi phần
Long mạch Nguyệt Thiên Huỳnh Kỳ dựng
Ngưỡng cửa non Đoài hội long lân
Qui
mệnh sứ quân cơ Thánh Đức
Lược
sách sử kinh định cung căn.
An
phần mở rộng gia qui
Xuất
thân xuất địa xuất nghi triều đình
Ngũ Nương xây chuyển thâm ân
[Ngũ Nương Diêu Trì Đại Tài Phật Mẫu, Thanh Hoa Công Chúa, Chúa Tiên Cung Liễu Hạnh]
[Ngũ Nương Diêu Trì Đại Tài Phật Mẫu, Thanh Hoa Công Chúa, Chúa Tiên Cung Liễu Hạnh]
Quốc vương thủy thổ vạn lần thâm bâu
Thiên
cơ gấp rút thiếu câu
Kỳ
Hương vạch rõ đường hầu Nam Bang
Trung
ương đất Phật An Giang
Tuồng
đời cát phận lớp lang phụng hoàng
Cộng đồng vạch định Hà San
Gom câu xã tắc gìn đàng Tứ Ân
Ngồi
buồn mà kiếm quạt mo
Nước
xuôi nước ngược vo vo lướt thuyền
Tâm
kinh nắm vận binh quyền
Quyết
phò Quốc Đạo Thánh Tiên dựa kề
Cõi
lòng xét thấy ủ ê
Nặng
mang hai chữ giác mê giống nòi
Hồn
Thiên chưa có chỗ ngồi
Lâm
phàm hạ tục thiệt thòi vẫn vui
Bởi
vì sanh chúng nhát mùi
Trầm
luân khổ ải tới lui độ đời
Gặt hái
nhiều niên bởi lịnh trời
Thâm
trầm vẻ mặt giọng ầu ơi
Thân
tướng đôi khi mang vất vả
Phật
Tiên điểm họa bủa cảnh đời
Cửu Cung Thiên Lịnh ấn Kim Thơ
Hồn Thiên thui thủi chuyển nhiều nơi
Ngậm đắng ăn cay nhờ Phật lực
Giảm
hồi nạn ách đợi chơi vơi.
Biển
đời cá bống lại cá kèo
Ánh
đèn thắp sáng cheo leo tỏ tường
Đường trôi dấu thỏ thương thương
Người
tu lập pháp quê hương nhận nhìn.
Đời
cũng xoay tận kiếp Huyền Thiên
Thương
người tu tỉnh thị sĩ hiền
Lão
khắp bước chân dang tay đón
Hướng
Phật tâm từ mới đặng yên
Mang
nặng lục căn không lối thoát
Chậm
trể lục trần chịu ngửa nghiên
Nêu
phận danh Thiên trải bao đời
Phàm
tục giáng lâm quyết mở lời
Trọng
trách hồn thân thương đại chúng
Người
đắm lợi quyền nghĩa se lơi
Ngã
Phật mầu linh đơn thuần ngẩm
Khó
nổi định ra được chỗ ngồi
Nhất
tâm bất loạn lòng không động
Chí
cả tu mi mới kịp thời
Nam
mô bồ tát tay niệm niệm
Sanh
nghiệp kiếp này (phải) trả chiều mơi.”
Pháp Âm #109:
“Trải
mật nằm gan tâm cố lỳ
Kiếp
trước đời sau chịu phúc ky
Quyết
đem chơn pháp nơi Phật cảnh
Giao
hứng nhân duyên tới đặng chi
Trời
đất mênh mông tuy không bóng
Bởi
thế vô hình chịu huyền vi
Lặng
lẽ xác na âm thinh trổi
Phải
cổ nghi binh thật từ bi
Lui gót phàm gian gìn Thích đạo
Lạc Thánh vi tường Dựng Hội Thi.”
Pháp Âm #110:
“Một
tấm lòng già một xác thân
Ý
Thiên tính Phật đã hầu gần
Chúng
sanh cõi tạm cùng quý quyến
Khó
chi họa đồ mệnh bần tăng
Thất
tâm khai mở luồng quang nhãn
Hiểu
kỷ chốn xưa Phật Thánh gần
Cứ
mãi đeo mang vòng ngũ uẩn
Chẳng
thoát lưới quanh phải nhọc nhằn
Cuộc đời hành đạo đem thân hiến
Ngấm ngầm luân chuyển dựng Phong Thần.
Trọn
đời trọn kiếp hiến Phật môn
Trần
tục ngươn tam chiếu thiên hồn
Định hướng ngã nhân lòng minh thệ
Ẩn ý tiêu diêu vượt Càn Khôn
Ô long xích phụng kè dang cánh
Đùm bọc pháp mầu lệnh Chí Tôn
Dầu
giải nắng mưa an bình chí
Thanh
nhật thiên y vượt sóng dồn.
Thâm
trầm kết tựu quả kim giai
Mộc
Thủy xây chung sức sống dài
Thổ
phanh lan rộng bàn cờ tự
Thất Nương mầu nhiệm tới dựng rày
[Thất Nương Diêu Trì Đại Linh Phật Mẫu, Hoàng Hoa Công Chúa, Thanh Nữ CungTây Vương Mẫu]
[Thất Nương Diêu Trì Đại Linh Phật Mẫu, Hoàng Hoa Công Chúa, Thanh Nữ CungTây Vương Mẫu]
Cửu vị liên tòa khai chín phẩm
Thúc giả bốn phương Cửu Trùng Đài.
Mấu
chốt then Thiên cửa an bày
Người
vì trung nghĩa bởi ngày mai
Gởi
tâm thuần thục công đức Phật
Đáp
lễ Tứ Ân hướng sen đài
Tinh
thần phổ hóa cơ duyên phận
Thanh đạo long môn trí tuệ khai.
Làng
Trời lòng Phật lòng Thánh bủa
Nước
tưới cam lồ tịnh ma ha
Qui
cách mạch cung hương đăng quả
Minh
triết bốn mùa tạng bách khoai.
Thầm
lặng kỳ yên giữa phận mình
Thanh
thiên bạch nhựt rõ lòng quyên
Tuổi
đời phận đạo đều đúng buổi
Khác
ý ngỏ làng lộ sân yên
Bổn
phận bổn căn khuôn bổn cũ
Bổn
tuồng thui thủi dạ triền miên
Thôn
dã ngọ môn lòng thôn dã
Gói
hết phận mình trải cành quyên.
Lướt
song phong ba vượt biển đời
Chăm
lo đạo quả Thánh trị đời
Hoa
cảnh chậu vô thiên niên ái
Thoát
chốn bể dâu phận y lời
Tranh
thủ Quân Ân đa phương xử
Kiểng
tiên trạm giả máy thay thời
Tam
Giáo Quy Nguyên thời mở cửa
Hoạn
sớm mưa Tần chịu ra khơi.
Gió
chiều lồng lộng tiếng vo ve
Hồn
đọng khuôn in đọc thơ vè
Tìm
về tới đâu khai đường kẻ
Đỉnh
cao cao quá muốn được nghe [nói về bài pháp]
Hạ
giới giáng lâm thầm vời vợi
Dụng
ý hồn tiên cảnh Thu Hè
Cuộc
đời ngao ngán cam đành dạ
Tích
sống xác phàm Phật chở che
Ai
chẳng lãm tư thư hàng đọc
Liên
hoàn tóc rối chẳng bày se
Ngắn
ngủi thời gian trang hiền sĩ
Dựng
bảng căng buồm có mấy ve
Gởi
gió đợi mây trao kỳ dậy
Thông
mạch nghìn thu phủi thế vè
Câu
nói Đông Du điều phải trái
Tiêu
diêu tự tại khó tránh nè
Trời
chuyển mùa Thu đùng đùng báo
Nóng
lạnh tứ thời ruộng trong se.
Thân
phận đa phương cảnh sum vầy
Văn
bài tâm ý tỏ rất hay [nói về bài pháp]
Tri
cảm linh quang đồng nghĩa cử
San
sớt bảo tồn cảm nghĩ hay
Hội
yến luôn xây đâu màng xác
Trổi
giọng chiều nay thấy chẳng sai.”
Pháp
Âm #111:
“Khoảnh
khắc hồn thiên cơ đổi hình
Khắc
khai tướng mạo trí phương in
Đất
nước giang san chờ thiện chí
Thiền
tỏa huệ thông phá vô minh
Luân
chuyển tuệ căn là phương thuốc
Cứu
bao người lành độ chúng sanh
Họa
đồ tướng sắc đổi luật Thiên
Dọn
nước cờ Thiên chẳng đánh liền
Mầm
đạo xoay quanh chờ thời vận
Đất
ruộng biên thùy sắp thiêng liêng
Tan
hoang ải nhất Già Lam trấn
Chúa Xứ nguyên nhung trấn ngự yên
Ngũ
hành gom mối khai sức sống
Bủa
đạo vô vi khắp trần miền
Đại
hội Phật xưa Đức Hảo Hòa
Xa
gần trăm họ khách phương xa
Bước
tới lễ nghi Ngài trọng trách
Tứ
phủ tròn Ân dựng cờ già
Phật
Thích Tây Sơn Thầy truyền đạt
Thánh
đại quy y trọn đủ căn
Bốn
loại Tứ Ân ơn đền trả
Tứ
Diệu Đế đúng một màu Cha
Bền
tâm chặt dạ nhứt trí tâm
Trí
tâm chặt dạ chỉ tâm sầu
Sầu
tư vướng bận sầu tâm lụy
Lụy
vạn lần phải lắm cơ duyên
Cơ
duyên tạo hóa khắp năm châu
Lòng
ai khóc kẻ sầu bi thảm
Thảm
kịch lụy trần đáng giá thay
Trí
tâm nhất trí ra màn kịch
Đoạn
cuối vở tuồng mới biết hay.”
Tinh
Hoa Hiệp Thiên_A tại St.Louis nhận thông điệp và gởi đến Người ngày lúc 16:09
P.M. Ngày 14 Tháng 12 Năm 2017 (Ngày
Tháng Đinh Dậu).
CẨM NANG THƯỢNG
ĐẲNG
Cẩm Tú truyền
tin thuộc đạo Huỳnh [Cẩm Tú = Jyeshtharya = Nhị Nương Diêu Trì]
Nang thơ luận giải rõ tình huynh
Thượng
thời giao chỉ Thiên Tầng định
Đẳng đại nghìn năm luyện Sấm Trình.
Tam
thời lai chuyển hội đồng hương
Giáo
chúng dựng xây quận huyện đường
Tam Giáo đẳng
mình chưa thấy tướng
Pháp Môn chưa
rõ chỉ thơ trường.
Giáo
Đường bổn giáo lập hành thông
Tam giáo chỉ
ban luận đạo đồng
Thông tuyến
thiên Tây Nam, Bắc rộng
Đông
này vừa đến Hội Tiên Rồng.
Lời bàn Chánh
Đạo luận vừa ban
Kim
ấn đặt tay lực lễ đàn
Chủ tọa thuận
hành kim mộc hỏa
Bàn
tròn chưa định luận chưa an.
Tâm khế Thiên Thông luận Cửu Trùng
Tam
Hoàng Thánh đến luận Thiên Trung
Tam nguơn chưa
ứng linh thông đỉnh
Đại điện tầng
không khải Thiên Cung.
Giáo
Mục Lịnh Tôn đáp trả lời
Rằng
y Chánh Giáo Đạo Thiên tươi [Thiên Đạo
Chánh Giáo]
Thanh thiên
tại nhật nơi trần thế
Đặt
định tầng không lịnh Cửu Trời. [Cửu
Thiên]
Giáo
chúng lịnh ban hiệp Cửu Đài
Tòa xoay Tam
Giáo định Đông lai
Cứu nguy nhân
loại liên thông địa
Tầng
thức Thượng Tôn lịnh nhất khai.
Đây đến nhiều
năm luận khai đàn
Giáo còn trông
ngóng đệ huỳnh an
Tâm yên thế
đại lai trùng áng
Thiện đạo tâm
nhân nhật nguyện đàn.
Nhật
đàn chỉ rõ Lịnh Tòa Chương
Ngoại
quốc hiệp ban Hội Giáo Đường
Thông đại Thiên
Đình Tây định hướng
Thiên
Thông Giáo Chủ tiếp đồng hương.
Giờ
khai ấn lễ đàn Thiên Địa
Đáp lễ cầu
Hậu Thổ Hoàng Thiên
Điển linh
quang cho ứng cơ mầu
Khai
ấn lịnh Thiên Tôn hạ giới.
Chuẩn bút mực
tọa đàn thiên bổn
Đáo trùng
lai thượng đẳng hồi qui
Luận đôi câu
chúc gởi đạo đồng
Kim qui mã
hội giao chuẩn đạo."
No comments:
Post a Comment