CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA THIÊN THƯỢNG HUYỀN
KHÔNG: THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO KỲ BA VÔ VI:
THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI
Vào ngày rằm
tháng Giêng năm Ất Hợi 1935, tức ngày Giáp Tí tháng Mậu Dần âm dương lịch hay
ngày 17 tháng 2 dương lịch, nơi cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên thuộc tỉnh
Hà Tiên của miền Nam Việt Nam, một mật đàn kéo dài ba ngày có tên là Tam Nhật
Đàn đã diễn ra nơi đây. Nội dung của mật
đàn chứa đựng những thông điệp vô cùng quan trọng liên quan đến CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ đương thời và THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI trong tương lai. Nội dung của mật đàn đã không được phép công
bố trong suốt một thời gian dài gần 3/4 thế kỷ theo Lệnh của Thượng Đế.
Trong đàn cơ này, Cha Trời đã giáng
đàn để "minh chơn lý" cho
nhơn sanh sau này thấy rõ làm tin rằng THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ
VI hay THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO KỲ BA VÔ VI là
CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA HUYỀN KHÔNG
và chỉ thị cho cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên của Đạo Cao Đài rằng họ chỉ
được phép phổ biến nội dung của mật đàn này khi đúng thời điểm.
Lúc đó, năm 1935, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
chỉ mới thành hình chưa tròn 10 năm. Và
thời điểm mà Thượng Đế cho phép phổ biến nội dung mật đàn là vào đầu thiên niên
kỷ 2000, khi mà "Trung Đông chiến họa lưỡng dân điêu tàn" và đời đạo đều
"hỗn loạn" đúng với
tiên tri. Văn bản chính đánh máy quay
roneno có đóng dấu ghi chép nội dung Tam Nhật Đàn vẫn còn đang lưu trữ tại Bát
Quái Đồ Thiên, là một cơ quan linh hiển của Đạo Cao Đài.
Lật
lại từng trang thiên thư chúng ta có thể lượt ra một số đoạn "cốt
lõi" của mật đàn. Xin ghi nhận dùm những chữ trong ngoặc
vuông [ ] là của người viết chèn vào để làm rõ nghĩa ý câu văn.
"Ngày kia, tại xứ VIỆT NAM, Trời lập BÁT MÔN ĐỒ TRẬN có 8 cửa ; Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn,
Đoài. Hào quang sáng chói nửa lừng trời thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang,
sang phá trận cho tiêu tàn, giành làm bá chủ. Trận Bát Môn của Trời lập, chính
là THIÊN MÔN TRẬN người tu 1.000 năm vào trận
khó ra. Thiên Môn Trận thâu hồi bá đạo vào Bảng Phong Thần, đó là Phong Thần
thăng Bảng Kỳ Ba đó các con! Như vậy thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo sang phá trận đều bị tiêu diệt, hồn
lên Bảng Phong Thần hết cả. Vậy
thì bá đạo không phá nổi đồ trận của Thầy. Thầy mới
thống nhất mà giáo truyền Đại Đạo khắp cả thế giới năm châu vũ trụ, chẳng phải
truyền [các mối] đạo ngày hôm nay đó các con!" (trích dẫn 1, trang
5, Tam Nhật Đàn).
"Ngày hôm nay [1935] Thầy giáo Đạo để biểu
hiệu Cao Đài Phổ Độ là [để] độ các con lập công giải thoát cho kịp kỳ tận thế
này nên Thầy giáng Đạo chưa khai Giáo. Đến cơ phổ độ hữu hình (thì hữu hoại) tiêu hoại
hết rồi thì chỉ còn lại những đạo tâm hữu căn hữu phước [là những] anh tài tuấn
kiệt [lúc đó] Thầy mới khai Giáo kỳ ba
thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần hoát khai Huỳnh
Đạo lập đời Thánh Đức Tân Dân, thì chừng đó Huỳnh Đạo thâu hết những kẻ đắc pháp huyền hư cùng hiền tài
tuấn kiệt mà dẹp loạn can qua hoàn cầu mới được.." (trích dẫn
2, trang 5, Tam Nhật Đàn).
"Đến ngày Thiên
Khai Huỳnh Đạo, đó là khai giáo Đạo Huỳnh, thì Phật Thánh Tiên Tam
Giáo hạ trần xuống thế mà thống nhất hòa bình, năm châu cùng vũ trụ, [rồi] Thầy mới đem biểu hiệu Cao Đài mà truyền lưu cõi thế,
các con không thông căn Đạo, không tìm hiểu được Thiên Cơ, tưởng lầm Cao Đài [Tam
Kỳ Phổ Độ] truyền đạo Năm Châu Thống Nhất hoàn cầu. Chưa được! Vì Cao Đài [Tam
Kỳ Phổ Độ] là cơ hữu hình đâu có Phật Thánh Tiên mà thống nhất, đâu có Phật
Thánh Tiên mà mà lập Bát Môn Đồ Trận. (trích dẫn 3, trang 5, Tam Nhật Đàn).
"... cho nên Cao
Đài là cơ Phổ Độ không có lập đời. Còn lập
đời là Huỳnh Đạo, là cơ Vô Vi, là Phật
Thánh Tiên xuống thế lập đời mới được..."
(trích dẫn 4, trang 6, Tam Nhật Đàn).
"Cao Đài Phổ Độ là ngày hôm nay [1935].
[Còn] cuối Hạ Ngươn đời tận thế là [lúc] tận diệt loài người năm châu cùng là
vũ trụ [sẽ chỉ] còn lại kẻ hữu căn hữu đức đặng lập đời trở lại Thượng Ngươn,
thì Luật Trời định Giáo Đạo Huỳnh [sẽ] xuống thế độ kẻ hữu
căn lập đời [chớ] không có Phổ Độ [nữa]. Hôm nay [Đấng] Tạo Hóa giảng
Đạo tại xứ Việt Nam Thầy vâng lịnh [Đấng] Tạo Hóa đầu
thai xuống thế độ kẻ hữu căn lập Đời Thượng
Ngươn trở lại, y lịnh của Tạo Hóa, cũng không có Phổ Độ. Phổ Độ là do Thầy quá thương các con là nòi giống của Thầy, [sẽ] bị Luật Trời tận
diệt hết chẳng còn, nên Thầy hoài tâm cùng [Đấng] Tạo Hóa nhiều lần mà xin xá tội
các con, cũng xin cho Thầy độ hết các con về cùng Thầy (không nỡ bỏ). Vì vậy nên Thầy tá danh Cao Đài Phổ Độ, Thầy đem hai kỳ trước chung
lại, kêu là Tam Kỳ Phổ Độ. Chính thiệt là kỳ này Lập Đời chớ không
có Phổ Độ. Phổ độ đây là phần riêng của Thầy độ các
con đó thôi. Nếu kỳ này Thầy không độ các con lập công giải thoát
thì các con [sẽ] bị Luật Trời tiêu diệt hết chẳng còn." (trích dẫn 5, trang
16, Tam Nhật Đàn).
"... kẻ hữu đức
là kẻ có công tu kiếp trước. Buổi cuối hạ ngươn, đời tận thế Hội
Long Hoa thì kẻ hữu căn được tiếp
luồng điển Thiên tu hành hết trước ngày Thầy giáo
Đạo Cao Đài này sẽ thấy đắc quả Phật Thánh Tiên. Còn người [đã] được đắc pháp huyền hư, lục
thông phát huệ, tiếp điển với Thầy, nghe Thầy chỉ dạy, những kẻ đó hiện giờ [buổi
cuối hạ ngươn đang] làm phận sự của Thầy [giao phó], hành Đạo Kỳ Ba Vô Vi, đi thống nhất Triệt Giáo hoàn cầu mà thành lập Đạo
Thầy, thì những kẻ đó hiện giờ [buổi cuối hạ ngươn] tiếp điển với Thầy mà thông
hiểu được căn cội nguồn gốc Đạo Thầy từ Thượng Giới đến hữu hình thế gian,
không cần Thầy nói giống như Thầy nói cho các con biết đây." (trích dẫn 6,
trang 17, Tam Nhật Đàn).
"Vì vậy khi Thầy ngự Bạch Ngọc Kinh
chầu Thượng Đế thấy Luật Trời xoay chuyển cận ngày tạo Thiên lập Địa,
thay quả Địa Cầu, thay bầu trái đất, nhân vật cỏ cây đều thay đổi cả, đó là Ngũ
Hành thâu loài người cùng vật chất đó các con, vì vậy Thầy gấp gấp mau mau giáng Đạo Kỳ Ba, ngày mùng Một tháng
Giêng năm Bính Dần [1926], Thầy dùng huyền diệu cơ bút khắp nơi mà kêu réo các con
mau quay đầu tỉnh
ngộ mà theo Đạo Cao Đài [rồi nhờ] có Tổ Tiên ủng hộ mà giải thoát hay là xác thịt
còn sống được [đặng] Thầy độ [tới kỳ] lập đời Tân Dân Thánh Đức." (trích dẫn
7, trang 17, Tam Nhật Đàn).
"Đó là hữu hình, rồi đây tiêu hoại hết,
nhưng đó là kế hoạch của Thầy triệu những kẻ Căn Đời vào Đạo đó thôi. Còn thiệt của Thầy là Kỳ Ba Vô Vi Lập Đời, còn Kỳ Phổ Độ [sẽ
bị] tiêu diệt hết rồi. Còn lại những
kẻ Đạo tâm hữu căn hữu đức sống đúng Luật của Thầy [thì] Thầy mới độ dẫn qua Kỳ
Ba Vô Vi, đặng lập Đời. Vì Luật Trời định vậy nên cơ
Phổ Độ phải bị tiêu diệt theo Nhân Sanh, đặng chọn kẻ Đạo tâm, đặng
lập Đời, không một kẻ nào thoát khỏi vòng hỗn loạn binh đao cùng dịch chướng đó
các con!" (trích dẫn 8, trang 19, Tam Nhật Đàn).
"Kỳ Ba Vô Vi
là Phật Thánh Tiên xuống thế lập đời nên Thầy chọn rặt những kẻ nguyên căn,
còn kẻ hóa nhơn thì vớt hồn về quê cũ đó các con. Còn
người hành phận sự kỳ ba của Thầy là những người đắc pháp huyền hư, lục thông
pháp huệ, dùng thân [để] cảm, tưởng mà tiếp điển với Thầy hành phận sự vô vi. Những người đó hiện giờ không có lãnh phận sự
lập công trong cơ Phổ Độ. Vì cơ Phổ Độ của
Thầy [là để] độ những kẻ thiếu căn thiếu đức còn lại . . . Còn những kẻ đắc pháp huyền hư tiếp điển với Thầy là bực Phật
Thánh Tiên [của] Tam Giáo xuống trần đầu thay làm người đặng thay Thầy hành phận
sự ở thế gian. Đắc pháp mà tiếp điển được với Thầy là ở trên Tam giáo xuống
mới tiếp điển được với Thầy, còn ngoài ra không ai được hết, đó là vị Minh Sư ở
Trần Thế." (trích dẫn 9, trang 19, Tam Nhật Đàn).
"Thầy minh ra cho các con biết rõ, những
người phận sự của Thầy ở thế kêu là Minh Sư, nhưng còn
một bậc Sư Ông [đang] còn ẩn. Những người phận sự
của Thầy đều có Sắc Lệnh của Trời ban trên Tam giáo xuống trần gian thay mặt cho Thầy đặng diệt tà độ
chánh, đặng lập Đời, chẳng phải là thường. Người phận sự của Thầy đủ quyền thưởng phạt thế gian, đủ tài
năng thao lược, pháp bửu nhiệm mầu. Nếu người thay mặt cho Thầy
không đủ tài năng thì làm sao thống nhất Triệt giáo hoàn cầu mà lập thành
Đại Đạo đó các con? (trích dẫn 10, trang 21, Tam Nhật Đàn).
"Hiện giờ, người
nhận phận sự chưa tới, còn ẩn danh như Khương Tử, để Kỳ Ba các con thấy rõ nhiệm mầu huyền diệu của các Sư Ông.
Các con đừng lầm tưởng các bậc Minh Sư ở
ngoài cơ Phổ Độ không có vô lập công như các con, các con cho đó không phải là
người Đạo Cao Đài là quá đổi quá dốt. Thầy cho biết:
Đạo Cao Đài gồm hết những kẻ hữu căn hữu đức hùng anh tuấn kiệt, cùng các bậc
Minh Sư ở [trên] toàn quốc Đất Việt đều chung lo tạo dựng Đạo Cao Đài."
(trích dẫn 11, trang 21, Tam Nhật Đàn).
"Cơ lập công với Tạo Hóa, kỳ Hội Long Hoa tận thế có nhiều bậc Tam Giáo hạ trần đầu
thai mượn xác làm người, lập công Kỳ Ba Vô Vi, dựng nước khai non, thống nhất
Triệt Giáo, thành lập Đạo Thầy. Bậc thiện căn, hữu đức không ham mê
vật chất quyền danh." (trích dẫn 12, trang 21, Tam Nhật Đàn).
"Phán Đoán Đại Đồng, là ngày Luật Trời
thưởng phạt loài người, tận diệt khắp cả thế gian hoàn cầu cùng Vũ trụ thì không còn một chéo đất nào ở thế gian còn nguyên vẹn.
Chừng đó Thầy cho chư Thần độ xác những kẻ hữu căn hữu
đức, độ xác những anh hùng tuấn kiệt đạo tâm ẩn nơi Thánh Địa đem về non đảnh
là nơi Huyền Linh Thiên định trước giờ ở yên nơi đó, chờ ngày Thiên Khai Huỳnh Đạo Tam Giáo giáng trần thâu những
kẻ đạo tâm hùng anh tuấn kiệt mà hữu dụng Kỳ Ba lập đời khai non dựng nước đó
các con." (trích dẫn 13, trang 22, Tam Nhật Đàn).
"Đàn hôm nay [1935] là Tam Nhật Đàn. Đàn
của Thầy minh chơn lý là Minh Sư thiệt của đạo, để cho các con sau này coi biết
rõ sự thật từ cơ Phổ Độ Hữu Hình cho tới Kỳ Ba Vô Vi
lập đời. Đó là Thầy cho biết rõ căn cội nguồn gốc Đạo Trời [Thiên Đạo]. Còn cơ Phổ Độ của Thầy mượn giả làm thiệt nên
Thầy không cho biết sự thiệt, cho biết thì lậu cơ mưu độ các con sao được, chớ
Thầy nào có muốn giấu." (trích dẫn 14, trang 23, Tam Nhật Đàn).
"Thầy dặn các con hãy nhớ, đến ngày hỗn
loạn là cơ của thầy bế tắc, là kỳ hữu hình đã mãn, sang qua kỳ vô vi
là các con bít đường lối, không biết Đạo đi tới nữa là chi, chỉ những kẻ
có điển quang quán tưởng tiếp với Thầy mới
hiểu thông mọi việc ... Các con hãy nhớ kỷ lời Thầy. Thánh giáo
[của] Thầy [hãy] cất giữ, đời hỗn loạn mới được phép
cho ra, bất tuân mệnh lệnh đại tội đó nghe con." (trích dẫn 15,
trang 26, Tam Nhật Đàn).
Từ
nội dung Tam Nhật Đàn, nhất là xuyên qua 15 đoạn trích dẫn trên, một bức tranh
tổng thể phát họa những chuyển biến ĐẠO & ĐỜI hiện rõ nét đến độ không thể
hoài nghi, không thể diễn dịch sai lầm, không thể không tin sau khi đối chiếu lại
với tất cả những gì đã diễn ra trong gần một thế kỷ qua. Tam Nhật
Đàn có thể nói là một văn bản "lập ngôn làm bằng chứng" của Thượng Đế
(tá danh là Đấng Cao Đài Tiên Ông) về toàn bộ CHƯƠNG
TRÌNH CỦA HUYỀN KHÔNG, từ khi bắt đầu "giáng Đạo" năm
1924 rồi hình thành cơ CAO ĐÀI TAM KỲ PHỔ ĐỘ 1926
để phổ độ nhơn sanh đất Việt, cho đến khi Phật Thánh Tiên của Tam Giáo đầu thai
xuống trần "khai
Cơ" THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI để
thâu phục bá đạo hoàn cầu và "khai Giáo" quảng truyền Đại Đạo của
Đấng Huyền Khung năm 2017, tạm gọi đó là ĐẠI ĐẠO HUYỀN
KHÔNG, vẫn dùng "biểu tượng Cao Đài" với ý nghĩa là
"Đài Cao tột Huyền Không" cũng là "Ngôi Chí Tôn Chí Thượng",
để tiến tới mục tiêu sau cùng của chương trình là LẬP ĐỜI
THÁNH ĐỨC giúp cho nhân loại trên quả địa cầu này tiếp tục tiến hóa xa
hơn nữa.
Những
điểm nhấn trong toàn bộ nội dung của Tam Nhật Đàn có thể điểm lượt lại như sau:
1. CAO ĐÀI
TAM KỲ PHỔ ĐỘ (năm 1926) chỉ là bước khởi đầu trong CHƯƠNG TRÌNH CỦA HUYỀN
KHÔNG nhằm phổ độ nhơn sanh Việt kém căn mà hữu phước, trước khi bước vào thời
kỳ THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO KỲ BA VÔ VI nói ngắn gọn là THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI.
2. THIÊN ĐẠO
KỲ BA VÔ VI sẽ đến vào thời điểm mà thế giới chứng kiến:"Trung
Đông chiến họa lưỡng dân điêu tàn" và "Ngòi lửa dậy bốn bề nao nức,
năm châu tràn tuyệt dứt nhơn sanh". Cũng vào
thời điểm đạo đời"đến ngày hỗn loạn" đó "các con bít
đường lối không biết Đạo đi đến đâu nữa" ; "bá đạo ra tranh hùng, Triệt Giáo dùng
tả đạo bàng môn mượn danh Tiên Phật mà độ giành người, cướp giật nhân sanh, làm
nhiều điều tà thuật chóa mắt" và đó là ngày mà"cơ
Phổ Độ của Thầy đã mãn".
3. THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI
không phải là một TÔN GIÁO. Nói cho chính xác KỲ BA
VÔ VI là một "cơ kỳ" trong sự vận hành chuyển dịch của THIÊN ĐẠO,
là ứng danh cho một giai đoạn diễn biến, qua đó công việc của các đấng Phật
Thánh Tiên nhận lệnh Tam Giáo đầu thai xuống thế gian trong xác thân con người
dưới trần để thực hiện CHƯƠNG TRÌNH CỦA HUYỀN KHÔNG sẽ được thực hiện. Các "Thiên Nhân" tại trần này sẽ không làm "công tác hoằng hóa hữu vi", như là của các vị trước đã làm để
"lập công bồi đức" trong cơ Cao Đài Phổ Độ, mà chỉ "thực hiện sứ lệnh vô vi" trong thời kỳ của THIÊN ĐẠO KỲ
BA VÔ VI.
4. Những Thiên Nhân tại trần
này là những "Minh Sư" tự biết rõ "căn phận vô vi" của mình, lặng lẽ "tiếp điển" tu thân,
sống giữa chợ đời ô trược, hành động như người tầm thường, cho đến khi đúng thời điểm "nhận sứ lệnh hành động" thì Thượng
Thiên mới "khai mở bộ đầu" để họ "tự ráp nối" với
"chơn linh của mình", "đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ" mà
trở thành siêu phàm, hiểu rõ thiên cơ, tận tường
chơn lý, "biết đường hành sự" khế hợp với trên
Thiên. Điều này cũng được Thầy xác lập
thêm một lần nữa trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967:
"Gần
đến lúc mật truyền biện pháp
Cho nhơn hiền tự ráp chơn linh
Những
con đúng đắn điển hình
Qui thành yếu lý siêu
hình giáng ngay"
(Ngọc Kinh 3, trang 42)
5. Trong số những Minh Sư tại
thế có các "Sư Ông" căn cơ rất cao trọng. Đàn cơ ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Sửu 1949 của bộ
phận Hiệp Thiên Đài tại Hà Tiên cho biết những Minh Sư và các Sư Ông vẫn chưa
xuống thế, chỉ là cận ngày thôi.
"Đại
Hội Long Hoa đã cận rồi
Thánh Thần Tiên Phật sắp lìa ngôi
Tề
an bá tánh qui kim cổ
Thiên
mạng phụng hành chớ thả trôi."
(Đại Đạo
Luận, trang 11)
Nhưng đến năm 1967, căn cứ theo lời Thầy tiết lộ trong đàn
cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo thì các
Minh Sư và các Sư Ông này đã có mặt dưới trần.
"Phật Thánh Thần Tiên đã xuống rồi
Chỉ
chờ giờ phút đúng đi đôi
Giang
sơn đất Việt luôn tài đấp
Đất
nước nhà Nam sẵn đức bồi."
(Ngọc Kinh 3, trang 3)
Như vậy, dựa vào hai mốc thời gian trên thì có thể đoán ra
là những Minh Sư và các Sư Ông đã hạ sinh trong khoảng thời gian 1949-1967. Tính đến hôm nay, năm 2017, thì các vị này
đang ở độ tuổi 50-67.
6. Hai chữ "Tam Kỳ"
không đồng nghĩa với hai chữ "Kỳ Ba".
Tam Kỳ là để chỉ Thượng Ngươn Nhất Kỳ Phổ Độ đã qua + Trung Ngươn Nhị Kỳ
Phổ Độ cũng đã qua + Hạ Ngươn hiện tại "Thầy tá danh Cao Đài Phổ Độ" = "Thầy đem
hai kỳ trước chung lại, kêu là Tam Kỳ Phổ Độ."
Như vậy rõ ràng là hai chữ "Tam
Kỳ" đồng nghĩa với "3 thời kỳ" tức là để chỉ "3 Ngươn Phổ Độ".
Còn hai chữ "kỳ ba" là để chỉ
"lần thứ ba". Thượng Đế đã nhiều
lần "tiên khải" sự "trở lại lần thứ
ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam". Văn bản của đàn cơ Thiên
Khai Huỳnh Đạo năm 1967 ghi:
"Đã
tuyên bố một lời: Thượng Đế
Quyết xuống trần cứu thế kỳ ba
Phơi
bày chí đức vị tha
Công
bình, bác ái đem ra khỏa lòng"
(Ngọc Kinh 3, trang 7)
Và,
"Ngọc ẩn Kỳ Sơn, xuất tại Nam
Hoàng gia xuống
thế độ con phàm
Thượng khai cơ Đạo
văn thiên định
Đế xuất Nam
Bang duyệt phẩm hàm
Giáo hóa con
thơ hành chánh pháp
Đạo mầu huấn
luyện sắc Già Lam
Nam kỳ Đế Chúa
còn im ẩn
Phương hướng định rồi dạ phải cam."
(Ngọc Kinh 3, trang 39)
Như mọi người đều biết, lần thứ nhất Thượng Đế hóa thân trên
đất nước Việt Nam là Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Văn Chiêu (1878-1932), khai truyền
Cao Đài Bí Pháp.
"NGÔI-HAI GIÁO-CHỦ Ðạo
Nam-Phương,
Nương
bút mực đề những luống thương,
NGÔ đồng lá rụng
còn đơm trái,
MINH nghĩa dựng
đời mối phong cương,
CHIÊU chiêu bóng
nguyệt tà canh cánh,
Xét
nét ngân vàng phủ giá gương,
Mênh
mang lý Ðạo đời chưa rõ,
Cần-Thơ
chánh thị Tổ-Ðình chương."
(Thiên Lý Bửu Tòa, đàn giờ Hợi
ngày 29 tháng 9 năm 1977)
Lần thứ hai Thượng Đế hóa thân trên đất nước Việt Nam là Nhị
Thiên Giáo Chủ Võ Văn Phẩm (1888-1940), khai truyền Cao Đài Tân Pháp.
"Nhứt điểm thiện tứ Nhứt điểm ban,
Nhị Nhân diên hống luyện quy hoàn.
Hiếu trung ngưỡng cổ Văn vi thủ,
Trụ xuất Nhân gian đạo đức toàn."
Nhị Nhân diên hống luyện quy hoàn.
Hiếu trung ngưỡng cổ Văn vi thủ,
Trụ xuất Nhân gian đạo đức toàn."
Chiết tự,
"
Chữ Nhứt mà thêm chữ Nhứt là chữ NHỊ.
Chữ Nhị mà thêm chữ Nhân là chữ THIÊN.
Chữ Hiếu mà thêm chữ Văn là chữ GIÁO.
Chữ Trụ mà bớt chữ Nhân còn chữ CHỦ"
Chữ Nhị mà thêm chữ Nhân là chữ THIÊN.
Chữ Hiếu mà thêm chữ Văn là chữ GIÁO.
Chữ Trụ mà bớt chữ Nhân còn chữ CHỦ"
Và,
"VÕ thọ chơn truyền lúc Hạ Ngươn,
GIÁO khai Từ
Phụ rộng ban ơn.
CHỦ tâm hiệp dược trường sinh đắc,
GIÁNG hỏa thối phù tánh mạng hườn."
CHỦ tâm hiệp dược trường sinh đắc,
GIÁNG hỏa thối phù tánh mạng hườn."
(Bạch Quang Đàn, 25 tháng 1 năm
Bính Tuất, 26/2/1946)
Nếu nói rằng "xuống trần cứu thế kỳ ba" là để chỉ
vào sự có mặt của Ngôi Hai Ngô Giáo Chủ thì không đúng vì Ngài "đã xuống"
và "đã qui hồi cựu vị" năm 1932 hoặc chỉ vào sự có mặt của Nhị Thiên Võ
Giáo Chủ thì cũng không đúng vì Ngài "cũng đã xuống" và "cũng đã
qui hồi cựu vị" năm 1940. Còn tinh
thần của hai câu"Đã tuyên bố một lời: Thượng Đế quyết xuống trần cứu thế kỳ
ba" là một tuyên ngôn, một xác
quyết, một huyền khải cho một sự kiện chắc chắn sẽ xảy ra trong
tương lai mà Cha Trời long trọng khẳng định vào thời điểm năm 1967. Hơn nữa những chữ như "ẩn kỳ sơn" hay "còn im ẩn" là để chỉ một nhân vật đang có mặt và chưa tới lúc xuất hiện, còn Ngôi Hai trào một và Nhị
Thiên trào hai thì đã xuất hiện và đã ra đi.
Một nhân vật vừa đảm trách vai trò Giáo Chủ "xuống thế độ con phàm", "khai cơ Đạo", "giáo
hóa con thơ hành chánh pháp", "huấn luyện sắc già lam" lại vừa Lãnh Đạo Quốc Dân với vai trò "Nam Kỳ Đế Chúa", "duyệt phẩm hàm". Như vậy có thể nói, tính tới năm 1967, thì cái"khai
Giáo"
mà Thầy đã vạch rõ vào năm 1935 trong Tam Nhật Đàn là vẫn "chưa
khai".
Như thế là một "Sư Ông" cao đại nhất trong các Sư
Ông, hiện nay vẫn còn đang "im ẩn", sẽ đứng ra khai giáo. Vị Sư Ông Cao Đại nhất đó chính là "Ngôi
Hai kỳ ba" hay "Nhị Thiên kỳ ba" như Ngô Giáo Chủ đã tiết lộ là
"Thầy lâm phàm rồi . . . để lập đời" trong đàn cơ dạy đạo
cho hiền huynh Quyền Pháp (Âu Châu) của Tân Chiếu Minh:
"Hạ Nguơn hầu mãn Thầy lâm phàm rồi
Thầy lâm phàm cứu Đời ngày cuối
Vớt Nguyên Căn trong buổi Hạ Nguơn
Loan truyền Đạo Chánh Pháp Chơn ...
Thầy lâm phàm cứu Đời ngày cuối
Vớt Nguyên Căn trong buổi Hạ Nguơn
Loan truyền Đạo Chánh Pháp Chơn ...
Ngày Mạt Hậu Ngôi Hai Tá Thế,
Mở Cơ Mầu là để Lập Đời,
Lập Đời Thánh Đức Dân Trời,
Độ Hồn Chủng Loại Người Người thành Tiên."
Mở Cơ Mầu là để Lập Đời,
Lập Đời Thánh Đức Dân Trời,
Độ Hồn Chủng Loại Người Người thành Tiên."
(Ngày
15 tháng 10 năm Kỷ Mão 1999, đàn giờ Sửu)
Đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo 1967 cũng xác định Sư Ông
Cao Đại đó chính là "chiết lần
ba"
chơn linh của Huyền Thiên Thượng Đế Ngọc Hoàng chuyển thể giáng thế, tức Ngôi
Hai kỳ ba, cùng với "36 luân
châu" là
36 vị Thánh Đạo Sư cùng với Sư Ông Cao Đại khai giáo kỳ ba, vì cho tới nay Thầy
chỉ đã "giáng Đạo" chứ chưa "khai giáo". Không những vậy, đàn cơ còn nói rõ "Ngọc Hoàng hiện thân Di Lạc trần gian, Phật Vương là hiệu Minh Hoàng là
danh".
Vâng
Thượng Đế Huyền Thiên mang hiệu
Thọ
sắc Trời hiệu triệu linh căn
Quyển
ba Kinh Ngọc lập văn
Khi
đời đại chiến chớp giăng hoàn cầu
Tam
thập lục luân châu giáng thế
Chiết phần/lần ba chuyển thể, Ngọc Hoàng
Hiện thân Di Lạc trần gian
Phật Vương là hiệu Minh Hoàng là danh.
Thầy
lãnh lệnh xuống miền dương thế
Chờ
đến ngày khánh tể triều ban
Đầu
Thầy đội nặng Thiên Hoàng
Vai
mang dương thế vai quàng kinh luân.
(Ngọc
Kinh, trang 34, Di Lạc Chủ Ngươn)
Mẹ Diêu Trì cũng cho biết:
Diêu ý Thiên cơ Ngọc giáng
sanh
Trì tâm Đạo pháp Kinh lai thành
Kim hồi Vô niệm Quyển tròn
nghĩa
Mẫu đáo Vi truyền Ba vẹn danh
Vô thủy Minh minh Thiên giáng để
Cực sơn Thiên định Khai còn dành
Từ hòa Đại thể Đại đồng chiếu
Tôn hiệp Nghĩa chung Đạo bạch
thanh.
(Ngọc
Kinh 3, trang 43)
Bài thơ khoán chữ đầu là "Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn",
khoán chữ thứ ba trong câu
là "Thiên Đạo Vô Vi, Minh Thiên Đại Nghĩa", khoán chữ thứ năm
trong câu là "Ngọc Kinh
Quyển Ba Thiên Khai Đại Đạo". Bốn chữ
"Ngọc Kinh Quyển Ba" không phải chỉ đơn thuần là quyển sách có
tên là Ngọc Kinh 3 mà phải hiểu ý ẩn mật là "màn ba/ kỳ ba của Bạch Ngọc
Kinh".
Ngoài ra lấy bốn chữ đầu của mỗi câu ráp thành bài "Diêu ý thiên cơ, trì tâm đạo pháp, kim hồi vô niệm,
Mẫu đáo vi truyền, vô thủy minh minh, cực sơn thiên định, từ hòa đại thể, tôn
hiệp nghĩa chung".
Và lấy bốn chữ cuối của mỗi câu ráp thành bài "cơ Ngọc giáng sinh, pháp kinh lai thành, niệm quyển tròn nghĩa, truyền ba
vẹn danh, minh thiên giáng để, định khai còn dành, thể đại đồng chiếu, chung đạo
bạch thanh."
Toàn bộ bài này đều ẩn tàng thiên cơ, nhất là hai bài phụ ráp
từ bốn chữ trong bài chính. Bài chính
nói: Ta là "Diêu trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn" xác định"Thiên Đạo Vô Vi" là"Đại nghĩa" của "Minh Thiên", là cơ
cứu thế "lần ba" của"Bạch Ngọc Kinh". Minh Thiên và
Huyền Minh là hai phàm danh của Huyền Thiên Thượng Đế khi Ngài thị thiện trên đất Trung Nguyên mà thế gian từng biết
tới.
Thêm một chữ "chìa khóa" vào mỗi câu của bài phụ
1, ráp từ bốn chữ đầu mỗi câu từ bài chính, thì nghĩa ý của toàn bài sẽ hiển
bày như sau: "Diêu ý [ẩn] thiên cơ, trì tâm [hành] đạo pháp, kim [ngôn] hồi vô niệm, Mẫu
[lai] đáo vi truyền, vô thủy [chung] minh minh, [địa] cực sơn thiên định, từ
hòa [nên] đại thể, [giáo] tôn hiệp nghĩa chung". Đây là những lời mà
Thiên Mẫu Diêu Trì muốn nói riêng với Huyền Thiên đang có mặt dưới thế gian tức
là nhắn gởi với "Sư Ông Cao Đại".
Thêm một chữ "chìa
khóa" vào mỗi câu của bài phụ 2, ráp từ bốn chữ cuối của mỗi câu từ bài
chính, thì nghĩa ý của toàn bài sẽ hiển bày như sau: "cơ Ngọc [Đế] giáng sinh, pháp Kinh [Kỳ] lai thành,
niệm quyển [cho] tròn nghĩa, truyền ba [lần] vẹn danh, Minh Thiên giáng [thế] để,
định khai [Giáo] còn dành, thể đại đồng chiếu [viết], chung Đạo Bạch [Chơn] Thanh." Tuyệt vời! Thật là tuyệt vời! "Pháp Kinh Kỳ" là
pháp luyện hơi thở liên quan đến hai mạch Nhâm Đốc nằm trong "kỳ kinh bát
mạch". "Truyền ba lần vẹn danh" là vẹn danh Cao Đài xuống thế ba lần trên đất nước Việt Nam. Lần thứ
nhất, là Ngôi Hai Ngô Văn Chiêu, để truyền trao bí pháp Cao Đài. Lần thứ hai, là Nhị Thiên Võ Văn Phẩm, để
truyền trao tân pháp Cao Đài, lần thứ ba để "khai Giáo" cứu vớt
nguyên căn và lập đời Thánh Đức Tân Dân. "Minh Thiên giáng thế" là Huyền Thiên giáng thế, là Ngôi Hai kỳ ba hay Nhị Thiên kỳ ba, là Sư
Ông Cao Đại. "Để, định khai Giáo còn dành" là việc
khai giáo còn dành chờ Sư Ông Cao Đại định đặt. Sứ mạng khai giáo của Sư Ông
Cao Đại được "thể đại đồng chiếu viết" tức là có ấn chứng của Huyền Không tức là có "chiếu chỉ và ấn sắc" của tất cả các
cơ quan và hội đồng trên cõi Huyền Không.
Và "Giáo" đó là "Bạch Chơn Thanh", cũng
là một "thể đại đồng". Toàn
văn là những lời Thiên Mẫu Diêu Trì muốn gởi tới các Sư Ông, 36 vị thánh là
luân châu giáng thế, và các đại linh căn đang thừa hành phận sự kỳ ba.
Thiên Mẫu còn cho biết những thông tin quan trọng về cá
nhân Sư Ông Cao Đại như sau:
"Vàng
nhờ Sông lộ ẩn cơ Thiên
Ngọc
cậy Sơn đầu đợi Pháp Thiền
Nước
chảy đá mòn thân bác lãm
Non
chày nào mõi phận thâm uyên
Tam Khai định Đế hồn quyên Thánh
Tứ
chuyển đồ vương xác Quốc Tiên
Xử sự thân nhân tân tuyệt hiếu
Thành gương Nghiêu Thuấn
đáp lương hiền.
Hiền
thần ẩn tánh lánh danh nhơ
Trung nghĩa bần thanh
giữ cõi bờ
Thiên
ý giáng trần ban báu sách
Nhơn
tâm tại thế lãnh Thiên Thơ."
(Ngọc Kinh 3, trang 42)
"Tịnh
Sơn đỉnh một vùng sơn thái
Sơn
liên đầu một dãy thủy ba
Phùng
sơn [mới] hiểu lý chơn hòa
Con
ơi còn đó chờ ra bao giờ!"
(Ngọc Kinh 3, trang 48)
Xin
lưu ý: Quyển Ngọc Kinh 3 của Thiên Khai Huỳnh Đạo, cũng giống như Tam Nhật Đàn
của cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên, là một văn bản "trấn môn" chứa
đựng những tiên tri quan trọng mà Thầy Trời đã chỉ thị là chỉ được trao vào tay
của những người xứng đáng, "chọn mặt gởi vàng", mà thôi.
7. Hai chữ "Cao
Đài" hoặc bốn chữ "Cao Đài Đại Đạo"
mà Thầy sử dụng trong một phạm trù rộng lớn hơn sẽ không cùng nghĩa với hai chữ Cao Đài hoặc với bốn chữ Cao Đài
Đại Đạo là một tôn giáo do Thầy lập từ năm Bính Dần 1926. Tương tự, bốn chữ
"Thiên Khai Huỳnh Đạo" mà Thầy nói tới ở đây không có ý nói tới tôn
giáo Thiên Khai Huỳnh Đạo đang có mặt được thành lập từ năm
1962. Điều này đã được Thầy xác lập lại
nhiều lần. Thí dụ như trong bài thánh giáo do hiền huynh Quyền Pháp hầu đàn vào
giờ Tí ngày 17 tháng 6 năm Đinh Sửu (21/7/1997), Thầy đã dạy:
"Cao Đài sứ mạng Đại Đồng
Vượt ngoài biên giới giống dòng sắc dân
Pháp Thầy giác ngộ nguyên nhân
Khắp trong hoàn vũ xa gần nơi nơi
Xét ra cơ sự Ý Trời
Chờ ngày chờ lúc chờ thời Pháp Linh
Đến chừng nhân loại đắc minh
Nhận ra Chơn Lý Đạo Huỳnh Thầy khai
Pháp Thầy hiển hóa có ngày
Người người tu luyện một Thầy một Cha
Không còn phân biệt màu da
Địa phương tín ngưỡng quốc gia chủng loài."
Vượt ngoài biên giới giống dòng sắc dân
Pháp Thầy giác ngộ nguyên nhân
Khắp trong hoàn vũ xa gần nơi nơi
Xét ra cơ sự Ý Trời
Chờ ngày chờ lúc chờ thời Pháp Linh
Đến chừng nhân loại đắc minh
Nhận ra Chơn Lý Đạo Huỳnh Thầy khai
Pháp Thầy hiển hóa có ngày
Người người tu luyện một Thầy một Cha
Không còn phân biệt màu da
Địa phương tín ngưỡng quốc gia chủng loài."
Chuyện "Thống nhất Triệt Giáo hoàn cầu"
có lẽ không phải là nỗ lực hữu hình mà bất cứ một tôn giáo hiện hữu nào có thể
làm được. Trước
tiên nó phải là nỗ lực của "toàn lực lượng vô vi" trong "tam
thiên" theo lệnh của Bạch Ngọc Kinh, Lôi Âm Đại Na Di, Diêu Cung và Hội Đồng
Tam Giáo Tòa trên cõi Huyền Không. Rồi
các Thiên Nhân trên khắp thế giới thực hiện phần hữu hình theo đà chuyển dịch tự
nhiên của Thiên Đạo để hoàn tất phần còn lại của CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC. Lý do cho nỗ lực "thống nhứt Triệt giáo toàn cầu" và "đổi quả kiền khôn tái lập đời" được nói rõ:
"Loài
người nay cũng đã đến hồi
Giác ngộ Tâm Kinh tiến hóa rồi
Bước lên một nấc thang cao trổi
Đổi quả kiền khôn tái lập đời."
Giác ngộ Tâm Kinh tiến hóa rồi
Bước lên một nấc thang cao trổi
Đổi quả kiền khôn tái lập đời."
(Đàn giờ Tý, ngày 17 tháng 6 năm Đinh Sửu 1997)
Các vị Thiên Nhân còn có một tên gọi
khác, đó là Thiên Long và Liên Hoa. Sự
qui tập của họ vào một thời điểm đã được ấn định để cùng nhau thực hiện sứ mạng
thiêng liêng đã được giao phó gọi là Long Hoa Hội. Nói về Long Hoa Hội, trong một
đàn cơ năm 1997, Thầy cho biết:
"Long Hoa Đại Hội sắp kề chân
Bớ chúng sanh mau tỉnh mộng trần
Nhanh chân tách bến qua bờ giác
Để kịp khoa tràng kẻo trễ chân.
Bớ chúng sanh mau tỉnh mộng trần
Nhanh chân tách bến qua bờ giác
Để kịp khoa tràng kẻo trễ chân.
Chân Truyền Đại Đạo kể từ đây
Phổ hóa năm châu cứu nạn này
Cơ cuộc diễn bày ra trước mắt
Không ai thoát khỏi trận cuồng xây.
Phổ hóa năm châu cứu nạn này
Cơ cuộc diễn bày ra trước mắt
Không ai thoát khỏi trận cuồng xây.
Xây chuyển Càn Khôn tái lập đời,
Quyền Pháp Kỳ Ba tỏa nơi nơi,
Cao Đài danh hiệu vang ba cõi,
Thiết lập Đời Tân gốc Đạo Trời.
Quyền Pháp Kỳ Ba tỏa nơi nơi,
Cao Đài danh hiệu vang ba cõi,
Thiết lập Đời Tân gốc Đạo Trời.
(Đàn
cơ ngày 15 tháng 5 năm Đinh Sửu 1997)
Cụm chữ "kể từ đây" có nghĩa là kể từ Long Hoa Hội khai màn, không phải
từ năm 1997. Theo tinh thần của đoạn
thiên thơ trên thì ở vào thời điểm 1997 Long Hoa Hội cũng chỉ là "sắp kề
chân" thôi chứ chưa diễn ra. Và, một
khi Long Hoa Hội khai diễn thì đó cũng là ngày chính thức "Chân Truyền Đại
Đạo" và "Phổ Hóa Năm Châu". Điều này cũng có nghĩa Long Hoa Hội không phải
là để Phán Xét như nhiều người nghĩ lầm, mà là một nỗ lực Cứu Thế của Cha Trời
trước và vào đúng lúc những thay đổi lớn lao diễn ra trên mặt địa cầu, những
thay đổi có khả năng tận diệt nhân loài và mọi sự sống trên mặt đất.
Vậy thì, chính xác là chừng nào các vị
Thiên Long và Liên Hoa mới xuất hiện? Chừng nào các Sư Ông xuất hiện? Chừng nào
vị Sư Ông cao đại xuất hiện? Trong đàn cơ năm 1960 nói về Chương Trình Long Hoa
Đại Hội (văn bản thuộc loại "mật") của Thiên Khai Huỳnh Đạo, Đức Di Lạc
Phật Vương cho biết:
"Chừng khi gặp được gà sắc đỏ
Ắt rạng điềm tỏ rõ Ngũ Châu
Nhà Nam bá chủ gồm thâu
Minh Hoàng xuất hiện đâu đâu phục tùng"
(Ngũ Phụng Kỳ Sơn, năm 1960, trang 38)
Mẹ Diêu Trì cũng cho biết:
"Một
nam tử giử gìn vẫn chánh
Một
quần thoa bảo lãnh toàn chơn
Một
tay dập tắt căm hờn
Một
giây, một phiếm, một đờn Bá Nha...
Một
con Lạc dầy công tu luyện
Một
cháu Hồng nhận điển Huyền Thiên
Một lời Mẹ đoán tam niên
Mùi Thân Dậu: Có, con hiền chờ xem"
(Ngọc Kinh 3, trang 48-49)
Và
Văn Xương Đế Quân cũng cho biết:
"Chỉ còn có hai năm Thân Dậu
Xiết
là bao nung nấu lòng người
Não
nề đường lối như như
Không
không là những tiếng cười thâm uyên.
Ai nhận được ba Tiên một Phật
Là
tròn câu tiêm tất dặn dò
Khỉ
rừng chót chét bo bo
Gà nhà tiếng gáy ó o vui mừng.
...
Thấy
đủ đầy sự thiệt vô cương
Huỳnh Long trổ hiện phi thường
Phật ra mặt Phật, Minh Vương cứu đời.
Dập tắt hết muôn nơi nước lửa
Phá tan mầm kiến lủ đàn ong
Việt
Nam đất nước thành công
Lạc
Hồng nòi giống gương trông thế thời"
(Ngọc
Kinh 3, trang 68-69)
Chưa
được sức đạp xô thành lũy,
Thôi cũng đừng trợ Ngụy, phò Vương,
Tu thân đợi buổi trăng tà,
Canh ba Gà gáy, sao sa khắp cùng...
Thôi cũng đừng trợ Ngụy, phò Vương,
Tu thân đợi buổi trăng tà,
Canh ba Gà gáy, sao sa khắp cùng...
[Canh
Ba = Canh +/- 3 vị trì. Canh - 3 vị trí
= Đinh. Canh Ba Gà = Đinh Dậu 2017]
Gà bay xa lộ
xuyên Đông,
Hà–Giang Thánh xuất tấn phong tôi hiền
Mười tám nước minh liên định liệu
Hà–Giang Thánh xuất tấn phong tôi hiền
Mười tám nước minh liên định liệu
Phật
Vương truyền sắc đổi Thượng Ngươn..."
(TKHĐ, Sấm Giảng Tiền Giang, 1967)
"Nơi
Hậu Giang Ngọc Đế định rồi
Long
Môn sấm ký để lời
Chơn
truyền Huỳnh Đạo nhất thời hoằng khai
Tiên
tri trước hậu lai sẽ rõ...
Thân Dậu niên an bày thế cuộc
Hội Long Hoa ngọn đuốc Đạo Huỳnh
Tàn Đông xuất hiện Tổ Đình
(TKHĐ, Sấm Giảng Hậu Giang,
25-6-1965)
Tân
niên Dậu ký Phật đáo lai
[tân
= mới = năm 2017 = Đinh Dậu]
Long
chuyển ngũ châu rạng Phật đài
Càn
khôn hội hiệp quy tam cõi
Thánh
Đức Tân Dân Cửu Trùng khai
(Bửu Linh Tự, Phật Đáo Lai, Mùng 1 Tết Đinh Dậu)
"Cuộc
vận chuyển nghìn năm có một
Thiên
Nhân Địa cảnh hiệp về đây
Khởi
đầu thi hội Long Hoa [2017 = Đinh Dậu]
Chứng
minh Đức Thánh kỳ ba khai trào.
Mỗi
linh căn chứng phàm kim thể
Đúng
pháp môn hiện hữu nơi đây
Hoa
ấn chung hòa cùng đại vị
Khải
Ngài Di Lạc hiệp Càn Khôn.
(Đàn Tắc Vân, Chứng Thánh Tam
Ngươn, 10-1-2017)
"Thiên Minh nhất giáo hiệp triều đình
Chấn quẻ Đông Bình hiện nhất Minh
Tôn Khảm hiện diện niên
Dậu tuế
[2017
= Đinh Dậu]
Hoàn cầu chuyển động hiệp quần sinh.
Long thần thức tướng hiện Càn Khôn
Hoa điểm tương lai chuyển Giáo Tôn
Diễn cảnh tương lai thiên kỳ định
Trận vô vi trận pháp Thiên Tôn..."
(Đàn Tắc
Vân, Long Hoa Diễn Trận 30-2-Đinh Dậu)
"Thiên Ấn Càn Khảm luận việc làm
Trạng Trình kỉnh
việc hội trào tam
Tam thiên thế
giới lân hòa hiệp
Nhất đẳng Huỳnh
quang nhất hội tam...
NGÀI lộ cơ HUYỀN THIÊN Đại Cán
Nhất Trào Thiên nhất điển HỒNG lai ...
Nhất Cửu đỉnh
Hồng Quân Thượng Tổ
Nhất niên lai Đinh Dậu khai bài
Tứ thân hành
ngũ đẳng truyền nhân
Thần Thánh Phật,
Tòa Đình hiện thế...
Đúng Thượng Ngươn kỳ hẹn truyền trao
Lời tỏ tường theo lệnh Thiên Tôn
Luận cho rõ
pháp tâm nguyên thể..."
(Đàn Cali, Thanh Bạch Sắc Cơ, 6-3-Đinh Dậu)
Là
năm Đinh Dậu, Gà sắc đỏ! Không ai dám chắc
có phải là Đinh Dậu 2017. Nhưng có một
điều có lẽ đúng, nếu như thực sự xuất hiện, vị Sư Ông Cao Đại phải có khả năng
"phá tan mầm kiến lũ đàn ong"
và phải là một nhân vật không ngại sứ mạng
"thiết lập Đời Tân gốc Đạo Trời".
Nhìn
về tương lai, có lẽ một TÔN GIÁO MỚI sẽ hình thành từ sứ lệnh"hành Đạo Kỳ Ba Vô Vi, đi thống
nhất Triệt Giáo hoàn cầu mà thành lập Đạo Thầy" để mà "Chân
Truyền Đại Đạo kể từ đây".
Tạm gọi "Đạo Thầy" là ĐẠI ĐẠO
HUYỀN KHÔNG tức là NỀN ĐẠI ĐẠO CỦA HUYỀN KHUNG THƯỢNG ĐẾ, vẫn với
"biểu hiện Cao Đài" nhưng
không phải là tôn giáo Cao Đài hiện nay
hay là hậu thân của tôn giáo Cao Đài hiện nay mà là một Thiên
Khai Huỳnh Đạo Đại Đồng do chính Thầy
Trời hóa thân xuống trần lần thứ ba tại Việt Nam để "khai Giáo",
cũng nói là Thiên Khai Huỳnh Đạo nhưng không phải là tôn giáo Thiên
Khai Huỳnh Đạo hiện nay. Có thể đoán đây là một TÔN GIÁO VÔ VI, một TÔN
GIÁO HUYỀN MẬT, một TÔN GIÁO SIÊU LINH, một TÔN GIÁO ĐẠI ĐỒNG, một TÔN GIÁO
HOÀN CẦU hình thành từ sự huyền đồng của các tôn giáo hiện tại. Nó sẽ không đặt nền tảng trên những ràng buộc
hữu vi thông qua giáo điều, qua tổ chức tinh vi, qua guồng máy vận hành đồ sộ,
hay dưới ảnh hưởng chính trị đời và chính trị đạo thường thấy ở mọi tôn giáo hiện
tại. Nó sẽ không đặt nền tảng trên những
giá trị vật chất hay những tự tôn văn hóa vùng miền theo thời gian sẽ bị lũng
đoạn hoặc gây ra phân hóa. Vì những thứ
này đã bị lũng đoạn đến mức độ tồi tệ và sẽ bị sụp đổ hoàn toàn vào một thời điểm
trong tương lai. Nền tảng của ĐẠI ĐẠO
HUYỀN KHÔNG là "từng mỗi và tất cả" cá nhân đều có "cơ hội và khả
năng" trực tiếp "truy cập vào nội mạng Huyền Không" để được hướng
dẫn bởi Huyền Không, tự khám phá sự huyền nhiệm bên trong bản thân, tự sáng tỏ
giáo lý thâm sâu vi diệu. Một tôn giáo
mà tất cả giáo chúng đều là những con người hiền thiện, những con người có khả
năng tâm linh cao, những con người còn sót lại sau Phán Xét, những con người của
Thánh Đức Tân Dân.
"Cơ
Tiến Hóa xoay vần đến buổi
Buổi nhân loài đến tuổi trưởng thành
Đến ngày hiểu được ngọn ngành
Mỗi Người tự ngộ Đạo Lành nơi Tâm
Nguơn Thánh Đức Tân Dân tái tạo
Mỗi người đều có Đạo Tự Nhiên
Mỗi người tự biết Căn Tiên
Tánh Trời Tâm Phật Bản Nguyên của mình
Dân Nước Thánh Tâm Minh Trí Sáng
Là Dân Trời bản dạng Thiên Lương
Hiền hòa chất phát yêu thương
Nơi nơi an lạc mười phương thái hòa
Khắp Trần Thế nhà nhà tu luyện
Người người đều hiển hiện Phật Tâm
Vui say mùi Đạo âm thầm
Cùng Trời giao cảm Đạo ngầm quảng khai...
Buổi nhân loài đến tuổi trưởng thành
Đến ngày hiểu được ngọn ngành
Mỗi Người tự ngộ Đạo Lành nơi Tâm
Nguơn Thánh Đức Tân Dân tái tạo
Mỗi người đều có Đạo Tự Nhiên
Mỗi người tự biết Căn Tiên
Tánh Trời Tâm Phật Bản Nguyên của mình
Dân Nước Thánh Tâm Minh Trí Sáng
Là Dân Trời bản dạng Thiên Lương
Hiền hòa chất phát yêu thương
Nơi nơi an lạc mười phương thái hòa
Khắp Trần Thế nhà nhà tu luyện
Người người đều hiển hiện Phật Tâm
Vui say mùi Đạo âm thầm
Cùng Trời giao cảm Đạo ngầm quảng khai...
Nền
Đại Đạo Tiên Thiên khai mở
Để mỗi người quay trở vào Tâm
Mỗi Người Tự Ngộ Lý Thâm
Nhờ công tu luyện chí chăm một đời
Chẳng phải nhờ theo thời theo thế
Chẳng phải qua đoàn thể giáo tông
Cơ huyền kiếp sống muốn thông
Thì cần phải có dụng công tu trì
Đại Đạo vốn Vô Vi Vô Tướng
Đại Đạo thì Vô Lượng Vô Bờ
Mỗi người ngộ đắc Thiên Thơ
Tự nơi sâu thẳm Tâm Cơ của mình
Chẳng phải tìm nơi Đình, Chùa, Thất
Phải biết tìm ra Phật nơi lòng
Giờ giờ phút phút nhìn trong
Nhìn vào Tự Tánh sẽ thông Cơ Huyền.
Để mỗi người quay trở vào Tâm
Mỗi Người Tự Ngộ Lý Thâm
Nhờ công tu luyện chí chăm một đời
Chẳng phải nhờ theo thời theo thế
Chẳng phải qua đoàn thể giáo tông
Cơ huyền kiếp sống muốn thông
Thì cần phải có dụng công tu trì
Đại Đạo vốn Vô Vi Vô Tướng
Đại Đạo thì Vô Lượng Vô Bờ
Mỗi người ngộ đắc Thiên Thơ
Tự nơi sâu thẳm Tâm Cơ của mình
Chẳng phải tìm nơi Đình, Chùa, Thất
Phải biết tìm ra Phật nơi lòng
Giờ giờ phút phút nhìn trong
Nhìn vào Tự Tánh sẽ thông Cơ Huyền.
(Ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão, đàn dạy
đạo huynh Quyền Pháp)
Và
quan trọng hơn hết, nếu cái "Đạo Thầy" trong tương lai cũng là "từ Đấng Cao Đài khai Giáo mà không phải
là Cao Đài" thì diện mạo Pháp Chánh Truyền của
cái "Đạo Thầy" này ra sao?
Trong một đàn cơ năm 1998, Long Nữ Tiên Nương đã giải thích:
"Lý Chân Như cơ mầu ẩn hiện
Đường về Thầy tu luyện làm đầu
Muốn cho thấu lẽ nhiệm mầu
Con đường Chánh Đạo phải cầu nơi Tâm.
Đường Cao Học thâm thâm vi diệu
Đạo vô vi bí yếu khôn lường
Chí tâm tìm hiểu cho tường
Nội quan phản chiếu rõ đường huyền vi.
Nay nhằm buổi Tam Kỳ khai mở
Pháp Chánh Truyền sáng rỡ Tâm Kinh
Móng nền Cơ Đạo Huyền Linh
Tìm ra Chân Lý Đạo Huỳnh nơi Tâm.
Cao Đài Đạo huyền thâm mặc mặc
Muốn gặp Thầy giữ chặt Tâm Kinh
Hư vô chi khí Thượng Đình
Tu đơn luyện kỷ công trình công phu.
Pháp mầu phải tầm tu cho đạt
Phải cho tường Y Bát truyền lưu
Phải thông Diệu Lý Vô Ưu
Phải hành đúng pháp phải tu đúng đường.
Đuốc Chơn Lý đưa đường dẫn nẽo
Đạo Từ Bi phải khéo tô bồi
Công phu công quả đành rồi
Công trình phải đủ vậy thời Tam Công.
Tu Chơn Tánh thâm thông diệu lý
Luyện phép mầu ý chỉ nơi lòng
Luyện trau Tánh, Mạng cho đồng
Có Tâm có Thể mới hòng đắc minh.
Cơ Đại Đạo thinh thinh hiện ẩn
Lý vô vi xen lẫn hữu hình
Có Vô có Hữu quy trình
Trong vô có hữu lấy hình làm không.
Người đạt lý Tâm Trung vô ngại
Đạo Huyền Đồng tự tại như như
Không trên dưới, không thiếu dư
Không cao không thấp Huyền Hư ý này.
Muốn hiểu được Đạo Thầy diệu lý
Muốn tìm ra huyền bí Đạo Cao
Phải thông Chơn Pháp Thầy trao
Phải tường căn cội Đài Cao nơi mình.
Năng đọc tụng Huỳnh Đình vô tự
Thường luyện Thần học chữ Tâm Kinh
Thời thời tưởng Đạo nơi mình
Sát na nắm chặt Huỳnh Đình mà phăng.
Phăng cho thấu Đạo hằng rỡ rỡ
Tìm cho ra Tâm ở nơi nào
Khí Tinh lên xuống ra vào
Âm dương nhị khí hai hào đắc minh.
Minh Chơn Lý Đạo Huỳnh tỏ rõ
Thấy tận tường sáng tỏ Đạo Cao
Vô vi hình tướng sắc màu
Nhiệm thông huyền lý Đạo Cao của Thầy.
Gieo Chơn Pháp Thầy gầy từ thuở
Hiển Đạo mầu sáng rỡ gương soi
Để đời lưu dấu khá noi
Gương tu Thầy để khá coi theo hành.
Hành Chánh Pháp cho thành quả vị
Để làm nền chuẩn bị Đạo khai
Chờ ngày Cứu Thế Cao Đài
Tỉnh mê sanh chúng lập đời Thượng Ngươn."
Đường về Thầy tu luyện làm đầu
Muốn cho thấu lẽ nhiệm mầu
Con đường Chánh Đạo phải cầu nơi Tâm.
Đường Cao Học thâm thâm vi diệu
Đạo vô vi bí yếu khôn lường
Chí tâm tìm hiểu cho tường
Nội quan phản chiếu rõ đường huyền vi.
Nay nhằm buổi Tam Kỳ khai mở
Pháp Chánh Truyền sáng rỡ Tâm Kinh
Móng nền Cơ Đạo Huyền Linh
Tìm ra Chân Lý Đạo Huỳnh nơi Tâm.
Cao Đài Đạo huyền thâm mặc mặc
Muốn gặp Thầy giữ chặt Tâm Kinh
Hư vô chi khí Thượng Đình
Tu đơn luyện kỷ công trình công phu.
Pháp mầu phải tầm tu cho đạt
Phải cho tường Y Bát truyền lưu
Phải thông Diệu Lý Vô Ưu
Phải hành đúng pháp phải tu đúng đường.
Đuốc Chơn Lý đưa đường dẫn nẽo
Đạo Từ Bi phải khéo tô bồi
Công phu công quả đành rồi
Công trình phải đủ vậy thời Tam Công.
Tu Chơn Tánh thâm thông diệu lý
Luyện phép mầu ý chỉ nơi lòng
Luyện trau Tánh, Mạng cho đồng
Có Tâm có Thể mới hòng đắc minh.
Cơ Đại Đạo thinh thinh hiện ẩn
Lý vô vi xen lẫn hữu hình
Có Vô có Hữu quy trình
Trong vô có hữu lấy hình làm không.
Người đạt lý Tâm Trung vô ngại
Đạo Huyền Đồng tự tại như như
Không trên dưới, không thiếu dư
Không cao không thấp Huyền Hư ý này.
Muốn hiểu được Đạo Thầy diệu lý
Muốn tìm ra huyền bí Đạo Cao
Phải thông Chơn Pháp Thầy trao
Phải tường căn cội Đài Cao nơi mình.
Năng đọc tụng Huỳnh Đình vô tự
Thường luyện Thần học chữ Tâm Kinh
Thời thời tưởng Đạo nơi mình
Sát na nắm chặt Huỳnh Đình mà phăng.
Phăng cho thấu Đạo hằng rỡ rỡ
Tìm cho ra Tâm ở nơi nào
Khí Tinh lên xuống ra vào
Âm dương nhị khí hai hào đắc minh.
Minh Chơn Lý Đạo Huỳnh tỏ rõ
Thấy tận tường sáng tỏ Đạo Cao
Vô vi hình tướng sắc màu
Nhiệm thông huyền lý Đạo Cao của Thầy.
Gieo Chơn Pháp Thầy gầy từ thuở
Hiển Đạo mầu sáng rỡ gương soi
Để đời lưu dấu khá noi
Gương tu Thầy để khá coi theo hành.
Hành Chánh Pháp cho thành quả vị
Để làm nền chuẩn bị Đạo khai
Chờ ngày Cứu Thế Cao Đài
Tỉnh mê sanh chúng lập đời Thượng Ngươn."
(Ngày 9 tháng 7
năm Đinh Sửu 1997, đàn dạy h/h Quyền Pháp).
Đó là Pháp Chánh Truyền của Thầy. Như vậy, có thể tóm gọn
trong bốn chữ "Pháp Ấn Vô Vi".
"Vô Vi không luận thấp cao
Không cao mà lại trùm bao đất trời
Vô Vi không nói một lời
Một lời không nói mà trời đất theo
Nhiệm màu cái đạo Vô Vi
Nên Thầy khuyên trẻ hãy đi đến cùng."
(ày 9 tháng 7
năm Đinh Sửu 1997, đàn dạy h/h Quyền Pháp).
Toàn bộ CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC
TÂN DÂN CỦA HUYỀN KHÔNG đã được giải trình.
Người viết đã cố gắng giải trình một cách khách quan với thái độ của một
nhà nghiên cứu "sấm giảng và thi văn đạo giáo" chứ không với tư cách
là một tín đồ của bất cứ tôn giáo nào.
Người viết chỉ căn cứ trên chứng liệu "khả tín" vì đã "trãi
qua thử thách theo thời gian". Người
viết tuyệt nhiên không có ý xúc phạm bất cứ ai hay bất cứ tôn giáo nào. Và trong sự giải trình nếu có điều chi sơ xuất
hay làm phật lòng một ai, người viết cúi đầu cầu xin sự rộng lượng tha thứ.
Để chốt lại những điều đã giải trình
chỉ trong một vài lời ngắn ngủi là một điều ngoài sức của người viết. Như vậy, còn biết nói lời gì hơn
là được phép lập lại một câu nói đơn giản:"Phúc cho những ai chưa thấy mà tin".
"Cơ cuộc thế Đông Tây Nam Bắc
Sẽ có ngày bế tắt đảo điên
Do vầy Lượng Cả Ơn Thiên
Chuyển đưa Chư Phật Chư Tiên xuống trần.
Để cứu độ Nguyên Nhân kỳ chót
Vượt ái hà giải thoát trần lao
May duyên gặp buổi Đạo Cao
Ơn Trời khai mở Pháp trao cứu nàn.
Bớ sanh chúng lên thoàn lẹ lẹ
Để quày về Đất Mẹ Quê Cha
Nương theo Pháp Đạo Kỳ Ba.
Sẽ có ngày bế tắt đảo điên
Do vầy Lượng Cả Ơn Thiên
Chuyển đưa Chư Phật Chư Tiên xuống trần.
Để cứu độ Nguyên Nhân kỳ chót
Vượt ái hà giải thoát trần lao
May duyên gặp buổi Đạo Cao
Ơn Trời khai mở Pháp trao cứu nàn.
Bớ sanh chúng lên thoàn lẹ lẹ
Để quày về Đất Mẹ Quê Cha
Nương theo Pháp Đạo Kỳ Ba.
(Đàn
giờ Tí, 14/7/1997 Đinh Sửu, đàn dạy h/h Quyền
Pháp)
BL ngày 14 tháng 7 năm 2017
DT
No comments:
Post a Comment