Monday, February 26, 2018

NHỮNG BÀI GIẢNG CỦA TRƯỞNG LÃO GIÁO HỘI THIÊN TRƯỜNG




Ngày 12 tháng 9 năm 2016
Cảm tác

"Chẳng mong chẳng lụy chẳng ưu phiền
Một mảnh đời chung chẳng tính riêng
Trên cao thiên giới đầu ta gối
Dưới đất chân gieo hạt giống hiền
Tay ôm hết cả đâu cần biết
Là ma hay thánh cũng chơn tiên
Bồ đề vốn dĩ không dơ sạch
Ngại thì đâu thiệt giống Huyền Thiên."


Ngày 02/11/2017
Cảm tác

"Dầu trời đất nắng mưa mỗi lúc 
Dầu tử sinh là khúc luân thường 
Nhưng lòng vẫn thấy thê lương 
Mấy ai đã biết tỏ tường cơ Thiên?! 
Trời đã quyết, Cha Trời đã quyết 
Mẹ đã đành, Thiên Mẫu đã đành
Phật tuyên thế giới chúng sanh 
Trường thi đến lúc điểm danh hội này 
Cầm ấn lệnh xót xa lệ chảy 
Nhận thiên thơ ngớ ngẫn tâm can
Thân là con của Thiên Hoàng
Mà không giúp được trần hoàn kỳ ba
Tay trái giữ ma ha Thiên Đạo
Tay phải cầm ấn lệnh Hoàng Thiên
Ta từng đã có thệ nguyền
Nếu không vớt hết đài thiên không về
Nhưng bây giờ đời ủ đạo ê
Ai thấu nỗi ê chề nơi dạ!!!"




Lưu xuất, sáng ngày 5/11/2016
Chỉ điểm cho môn sinh sau giờ hành thiền.   

"Kinh tự nơi tâm vốn bổn lai 
Thường chơn, thường tịnh, chẳng động lay 
Không tầm, không tứ, không điên đảo 
Kinh này thiệt đến tự Như Lai."




Lưu xuất, sáng ngày 13 tháng 11 năm 2016 
Chỉ điểm cho môn sinh sau giờ hành thiền.  

[Người] 
"Bụi trần vốn dĩ chỉ bụi trần 
Lăng xăng quét dọn càng thêm bẩn 
Thường chơn thường tịnh lo gì bụi 
Ngũ uẩn còn không nói chi trần"  

[Môn sinh]
"Bụi trần vốn dĩ là bụi trần 
Lòng con đã ngộ tự bên trong 
Vào ra như thể ngôi nhà trống 
Lòng vốn tịnh chơn ngại chi trần"

[Người]
"Bụi trần vốn chẳng tự nơi tâm
Nó bám nó bay từ trăm năm
Tâm không lay động như đá tảng
Lo chi bụi bậm với sai lầm"
  



Lưu xuất, sáng ngày 19 tháng 12 năm 2016
Trả lời câu hỏi của môn sinh sau giờ hành thiền.

Pháp Giới là chi có biết không? 
Là con kiến cắn cái con ong
Là nước thành mây, mây thành nước
Là tâm sinh khởi hóa trần hồng.
Pháp giới vận hành tự tánh Không
Nhân duyên tùy, chư pháp thong dong
Không ưu, không lự, không tự hiện
Nhất chân Pháp Giới chẳng tự lòng."

"Pháp Giới chân Không
Chư pháp bên trong
Tướng tánh thấy có
Tự bổn lai không
Vì không nên có
Vì có nên không
Diệu hữu diệu dụng
Lý sự dung thông
Chư pháp thong dong
Hữu danh vô ngã
Nhân duyên tùy hiện
Trong Pháp Giới Không."



Ngày 20 tháng 12 năm 2016 
Cảm tác

"THIỆN TỊNH AM:
Ở cạnh đầu non rất xa làng
Bốn phía đầy khe gió thay đàn
Mây là tận đất len qua nóc
Đêm đêm sương lạnh đẩm áo tràng
Một chiếc giường con mưa ướt nửa
Vài cuốn kinh thư dấu lổ loang
Nhà trống cơm không đầy bụng lép
Nhưng lòng đủ chứa cả nhân gian."




Ngày 20 tháng 12 năm 2016 
Cảm tác

"HẸN HÒ:
Vàng cả đất trời trăng dáng tiên
Hẹn hò từ thuở mới khai thiên
Nhân duyên trăng đến tìm ta mãi
Vì sợ rằng ta chẳng lên thuyền
Trăng ơi ta nhớ Tình Thiên Quốc
Lại biết nhân gian lắm não phiền
Còn một thế gian chưa tỉnh thức
Cho nên giác tử chẳng vẹn nguyền."




Lưu xuất, sáng ngày 21 tháng 12 năm 2016
Chỉ điểm cho môn sinh sau giờ hành thiền.
  
"Bỏ Luật, bỏ Luận, bỏ luôn Kinh
Thẳng đường về tới chỗ Chơn Minh
Dứt bặt tới lui ngôn với tướng
Hà sa thế giới hiện quang linh."




Ngày 24 tháng 12 năm 2016 (ngày 26 tháng 11 AL) lúc 18:15:15
Cảm tác. Tán thán Jesus Christ nhân ngày Giáng Sinh. 

"Đê đầu đảnh lễ Chúa Ngôi Hai
Thị hiện trần gian cứu nhân loài
Dẫn dắt đàn chiên hành chánh pháp
Công Bình Bác Ái, sửa tâm sai
Chuộc tội dân chúa, con Thiên Chúa
 Máu hồng nhỏ xuống rưới ân oai
Giáng Sinh Ngài đến nơi trần hạ
Xin dâng lời nguyện đến Thiên Đài
'Vinh danh Thiên Chúa trên Trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm' '"



 
Ngày 20 tháng 1 năm 2017 (ngày 23 tháng 12AL Bính Thân) 
Giảng giải Trung Dung cho môn sinh.

"TRUNG DUNG:
Trung là chính tâm
Dung là hằng dưỡng
Trung là Thái Cực chi phụ
Dung là Vô Cực chi mẫu.
Có Trung nên bất biến mà tùy duyên
Có Dung nên tùy duyên mà bất biến.
Có Trung mà không Dung vạn thù chẳng hóa hiện
Có Dung mà không Trung nhất bổn chẳng hồi qui.
Trung Dung chư pháp thong dong, pháp giới chẳng ngăn ngại
Chính tâm, vô vọng, kinh luân quyền thủ vẫn tiêu dao.
Lìa Trung nhân loại tròn điên đảo
Hướng Tâm thế giới hiện ảnh bào
Trung Dung mở lối về Thiên Đạo
Khổng Chu chẳng giấu một tơ hào."




Ngày 18 tháng 1 năm 2017

Thế nào là tu tỉnh?
Tỉnh có hai chữ là Tỉnh Thức và Tỉnh Lặng.  Tỉnh Thức là không mộng ban ngày, không mị ban đêm, không mớ lúc sống, không mơ tương lai chưa tới, không bám víu quá khứ đã qua, không vọng cầu được mất.  Nhờ những cái không này mà luôn sống với thực tại hiện tiền, ở từng mỗi phút giây, chân luôn chạm đất. Tỉnh Lặng là nhiễu động chung quanh dường như xa dần, thân thể dường như có dường như không, tâm thức chìm vào chơn tịnh, rồi đột nhiên "cái tôi hiện hữu" phân rã, chỉ còn lại chúng quang minh lộ.




Ngày 10 tháng 2 năm 2016 
Cảm tác

"XUÂN THU:
Xuân vẫn là Xuân, Thu vẫn Thu
Hai mùa đi, đến vẫn ôn nhu
Nhưng Xuân Thu trước đâu không thấy
Chỉ thấy Hoa thiền nở thiên thu."
 



Ngày 17 tháng 3 năm 2017 (20 tháng 2 Đinh Dậu).
 Chỉ điểm cho một môn sinh đang bị chao đảo.

"Nhập Đạo rõ mình
Nhập thế rõ Đạo
Giả, Chân pháp giới
Thánh chúng ra vào
Tâm vô quái ngại
Phàm phu chẳng thể.
Không tánh không tướng
Bất trụ bất lai
Niết bàn thị hiện
Phật Đà là ai?"




Ngày 11 tháng 5 năm 2017 (ngày ? tháng 4 năm Đinh Dậu)
Giảng về TÁNH KHÔNG để giải trừ hiểu biết sai lầm của một môn sinh.

"Thế giới của nhân sinh là thế giới nhị biên.  Mọi thứ đều được nhìn qua lăng kính và diễn giải bởi hai mặt  đối đải ghét thương, đẹp xấu, đúng sai, thiện ác, sinh diệt, có không, vân vân.  Nhưng hai mặt đối đải không phải là thực tánh của Pháp Giới và Chư Pháp.

Thực tánh của Pháp Giới vốn không sanh không diệt, không tới không lui, không có không không.  Thực tánh của Pháp Giới là CHƠN THỰC KHÔNG.  

Chư Pháp vận hành trong Pháp Giới không tự có mà phải do nhân duyên tác hợp mới có.  Chư Pháp hiện ra trong Pháp Giới như trăng dưới nước, như bóng trong gương.  Nhân duyên tác hợp không còn, Chư Pháp lại biến mất, như sương đầu cành, như hoa đốm giữa hư không.  Thực tánh của Chư Pháp là CHƠN THỰC KHÔNG.

Trí Nhị Biên chấp vào tướng CÓ tướng KHÔNG.  Chấp tướng CÓ vì vọng tưởng.  Diệt tướng CÓ chấp tướng KHÔNG lại rớt vào tà kiến.  Trí Nhị Biên bị kẹt cứng trong vòng đối đãi CÓ/KHÔNG, qua lại giữa vọng tưởng với tà kiến vì không thấy rõ thực tánh của Chư Pháp vốn là CHƠN THỰC KHÔNG.

Người tà kiến không thấy rõ thực tánh của Chư Pháp và Pháp Giới, Trí Nhị Biên chấp KHÔNG bỏ CÓ nên xa lìa hiện thực, bi quan và buồn thảm vì tưởng lầm thế giới hóa hư vô, hoặc giả từ bỏ mọi phương tiện trong cuộc sống để theo đuổi vọng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Khi xúc chạm việc đời thì tâm đầy động loạn.  Xúc chạm với ái dục thì dính mắc ái dục.  Xúc chạm với sân giận thì dính mắc sân giận.  Xúc chạm với vinh nhục thì dính mắc vinh nhục.  Người tà kiến chấp thủ tướng KHÔNG của các pháp, không thực sự chứng ngộ TÁNH KHÔNG, vẫn trong vòng đối đãi nhị biên, vẫn qua lại giữa vọng tưởng với tà kiến.

Người vọng tưởng không thấy rõ thực tánh của Chư Pháp và Pháp Giới, do chấp tướng CÓ, mê lầm theo đuổi sự đời với tất cả đam mê, như người đi trong sa mạc đang khát nước chạy theo huyển cảnh.

Cả hai loại người này đều bị cái khổ của thế gian trói buộc.

Trí Bát Nhã thấy rõ thực tánh của Chư Pháp và Pháp Giới là KHÔNG, tuyệt đối KHÔNG, vượt lên  khỏi đối đãi CÓ/KHÔNG nhị biên. Trí Bát Nhã không chấp thủ tướng CÓ tướng KHÔNG, không bỏ CÓ tìm KHÔNG, không ngộ nhận KHÔNG thành CÓ.           

Các sự vật hiện ra Như Thật là do vọng tưởng mà CÓ nhưng thực tánh là KHÔNG, tuyệt đối  KHÔNG.  Sự vật hiện hữu là do nhân duyên giả hợp mà CÓ.  Khi nhân duyên giả hợp không còn, sự vật không còn tiếp tục hiện hữu, CÓ tức khắc biến thành KHÔNG.  Sự vật không hiện hữu là do chưa đủ nhân duyên mà KHÔNG.  Khi nhân duyên giả hợp thành, KHÔNG tức khắc biến thành CÓ.  KHÔNG và CÓ hai tướng tuy khác nhau nhưng cả hai đều có chung một tánh: KHÔNG TÁNH.   

Người thấy rõ TÁNH KHÔNG của Chư Pháp và Pháp Giới, dù cho mọi vọng tưởng có tạm thời dấy lên cũng vẫn tự tại vô ngại, vẫn không dính mắc vào danh tướng ngã nhân, tâm không bị lay động, nơi các chỗ kiết sử sanh sẽ không sanh lại được.

Người chứng ngộ TÁNH KHÔNG, không bị cái khổ của thế gian trói buộc.  Với Trí Bát Nhã tất cả các pháp môn tu tập đều thành cứu cánh Ba La Mật." 




Ngày 23 tháng 6 năm 2017 (ngày 29 tháng 5 Đinh Dậu).
Trả lời môn sinh câu hỏi: Huyền Không Đại Pháp có đưa người về cõi Tịnh Độ?

"Cần hỏi thế nào là tịnh độ và làm sao vào tịnh độ rồi sau đó hãy hỏi Huyền Không Đại Pháp có đưa người về cõi tịnh độ được không. Trước hết hãy luận về sự tương quan giữa tịnh độ thế gian và tịnh độ tây phương.

Tịnh Độ Tây Phương và Tịnh Độ Thế Gian tuy nói hai nhưng không hai.  Như trăng treo trên trời và trăng nằm đáy nước, tuy thấy hai nhưng không hai.  Trăng trên trời không mọc, trăng đáy nước không hiện.  Trăng trên trời nếu chưa thấy, trăng dưới nước không thể tìm.  Tịnh Độ Thế Gian như trăng trên trời.  Tịnh Độ Tây Phương như trăng đáy nước.  Muốn tìm Tịnh Độ Tây Phương, trước phải thấy Tịnh Độ Thế Gian. Tịnh Độ Thế Gian không thấy, Tịnh Độ Tây Phương khó tìm.  Tịnh Độ Thế Gian không qua, Tịnh Độ Tây Phương khó đến. 

Thân tâm thanh tịnh thì cõi nước tịnh. Thân tâm bất tịnh thì cõi nước bất tịnh.  Đã bất tịnh thì không thể thấy trăng, dù trăng treo trên trời hay trăng nằm đáy nước.  Đã thanh tịnh thì trăng nào cũng là trăng, dù là trăng treo trên trời hay trăng nằm đáy nước.  Tịnh Độ Amita (A Di Đà) và Tịnh Độ Ajita (A Dật Đa = Di Lặc) tuy thấy hai nhưng không hai.

Người thọ pháp ấn vô vi, hành trì miên mật Huyền Không Đại Pháp (Diệu Pháp Đại Hoa Liên), không luận trăng trên trời hay trăng đáy nước, chỉ vắng lặng im lìm chờ trăng thượng đảnh. Một khi trăng thượng đảnh đã mọc (trăng hiện trong đầu), thì dầu không luận không cầu tịnh độ cũng mặc nhiên ngồi ngay trên pháp tòa giữa đất tịnh độ, cả tịnh độ Ajita và tịnh độ Amita." 




Ngày 24 tháng 6 năm 2017 (ngày 1 tháng 6 Đinh Dậu). 
Thuyết về Thiên Đạo Huyền Không.

"Pháp ấn của Phật môn là Khổ, Không, Vô Ngã. Thọ khổ, Thân vô thường, Pháp vô ngã. Pháp ấn của Phật môn cũng nói Không, Vô Tướng, Vô Tác.  Vạn pháp có mặt trong nhau. Một pháp có mặt trong vạn pháp và vạn pháp có mặt trong một pháp. Không có một pháp nào tồn tại độc lập. Đó là tính chất vô ngã của vạn pháp.  Vạn pháp cùng hiện, không tồn tại độc lập nên nói pháp không tướng.  Vì vạn pháp có mặt trong nhau nên vạn pháp bình đẳng không sai khác nhau, không có tướng lớn nhỏ tốt xấu . . .Đó là tính chất vô tướng của vạn pháp. Vạn pháp bình đẳng nên nói pháp vô tướng.  Vạn pháp không sai khác nên không mê đắm theo đuổi riêng một pháp nào, nhờ vậy mà tâm được an lạc.  Đó là tính chất vô tác. Vạn pháp không sai khác nên nói tâm vô tác, pháp vô tác.   

Pháp ấn của Thích Ca Mâu Ni Phật là Xa Lìa, Giải Thoát, Tịch Diệt.  Giáo pháp của Như Lai chỉ có một tướng, đó là tướng xa lìa, tướng giải thoát, tướng tịch diệt. Chúng sanh bị cột trói vào ngũ dục nên Như Lai thuyết xa lìa ngũ dục để được an vui tự tại. Chúng sanh do vọng chấp mà đời đời trôi lăn trong lục đạo luân hồi nên  Như Lai dạy "phản vọng qui chơn", dứt hết mê lầm, ra khỏi sinh tử. Pháp của Như Lai chỉ có một vị là vị giải thoát. Tịch diệt là qui về không. Không tướng là bản thể chơn như của vạn pháp, là tướng rốt ráo niết bàn tịch diệt, là Nhất Thiết Trí, là Đại Trí Huệ Phật.  

Cái gọi là Đại Trí Huệ Phật thì vô cùng rộng lớn không ngằn mé. Đại Trí Huệ Phật này là Chơn Như, là Không Tướng, biểu hiện qua Diệu Âm Quang.  Diệu Âm Quang là Như Lai Tạng, hay kho tàng của chư Phật.  Như Lai Tạng là tên gọi khác của Vô Cực, là Tiên Thiên Khí hàm tàng ngậm chứa cả võ trụ vạn pháp.

Võ trụ vạn pháp nằm trong Như Lai Tạng hay Vô Cực ở trạng thái Không Tướng hay Chơn Tướng hay Chơn Như hay Chơn Tịnh. Khi hội đủ nhân duyên võ trụ vạn pháp được sinh ra có hình tướng với muôn vạn sai khác.

Chư Phật xuất hiện giữa cõi đời ô trọc này chỉ vì một đại sự, đó là để chỉ bày cho chúng sanh tường tận Tri Kiến Phật. Chư Phật nhận thấy rõ nơi mỗi chúng sanh đều có sẵn Tri Kiến Phật, tức là cái thấy cái biết của chư Phật, gọi là Đại Trí Huệ Phật.  Với lòng Đại Bi chư Phật dạy phương pháp để chúng sanh thực hành hầu ngộ nhập Đại Trí Huệ Phật. Còn nói theo ngôn ngữ Huyền Không là để trở về với Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn.

Vì chúng sanh căn tánh khác nhau nên Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn dụng phương tiện Tam Thừa, giảng Tứ Diệu Đế cho hàng Thanh Văn, giảng Thập Nhị Nhân Duyên cho hàng Duyên Giác, giảng Lục Độ cho hàng Bồ Tát.

Thấy căn tánh của đại chúng buổi đầu còn lắm vô minh, phiền não nên Như Lai đã dụng nhiều phương tiện ngôn từ, văn ngữ, thí dụ để làm sáng tỏ các pháp để mà dẫn độ từ từ.  Cho đến khi trí tuệ đại chúng đã tăng tiến đủ và có thể tiếp nhận, Như Lai mới tuyên nói giáo pháp Phật Thừa tại Pháp Hoa Hội nơi Linh Sơn Thứu giữa đông đảo quần chúng.

Tại đại hội Pháp Hoa đó Thích Ca Mâu Ni Phật đã hoàn mãn nhân duyên đại sự cho sự xuất hiện của mình trên cõi tạm này, là để chỉ bày cho chúng sanh tường tận pháp tạng bí nhiệm của chư Phật và để giúp cho chúng sanh ngộ nhập Đại Trí Huệ Phật, Chơn Như, Không Tướng, Diệu Âm Quang, Như Lai Tạng, Tiên Thiên Khí hay trở về với Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu ...

Từ khi Thế Tôn xuất hiện đến nay đã hơn 2500 năm.  Trong suốt chiều dài thời gian đó cũng đã có không ít Thiên Nhân Sư thị hiện trong thế gian này, cũng nhằm vào nhân duyên đại sự là để chỉ bày cho chúng sanh thấy rõ pháp tạng bí nhiệm của Trời Đất và để chúng sanh ngộ nhập Chơn Như, dưới những hình thức tôn giáo khác nhau, dưới những dạng giáo lý và hình thái ngôn ngữ khác nhau, tóm lại là giáo lý của Tam Giáo Phật Thánh Tiên.

Tam Giáo Phật Thánh Tiên không phải là 3 tôn giáo.  Tam Giáo Phật Thánh Tiên lại càng không phải là 3 đẳng cấp tu tập hay đạo quả. Tam Giáo Phật Thánh Tiên là 3 con đường để dẫn dắt chúng sanh từ chỗ vô minh, sơ khai đến chỗ ngộ nhập pháp tạng bí nhiệm của Thiên Đạo.  Ba con đường khác nhau nhưng cùng một nhân duyên đại sự.

Ba con đường thực sự là có khác nhau nhưng khác nhau không phải vì pháp tạng bí nhiệm của chư Phật khác hơn (hay bí mật hơn hay mầu nhiệm hơn) pháp tạng bí mật của chư Đại La Kim Tiên hoặc của chư Thượng Thánh, hay khác với pháp tạng bí nhiệm của Thiên Đạo.  Khác nhau chỉ vì Phật Thánh Tiên dụng phương tiện khác nhau, dụng ngôn từ văn ngữ khác nhau, dụng luận lý khác nhau...

Tướng tôn giáo có khác, tướng ngôn ngữ có khác, tướng luận lý có khác nhưng tất cả tướng khác biệt này đều dẫn về Không Tướng, đều cho chúng sinh nếm hương vị giải thoát, đều mở cửa Như Lai Tạng, đều trở về với Mẹ Diêu Trì.

Trải qua hơn 2500 năm hàng nhơn, thiên và chúng sanh đã tiến hóa khá xa, đã sẳn sàng để tiếp nhận thêm. Năm xưa Phật Thế Tôn đã khai thị "không có ba thừa mà chỉ có duy nhất một thừa là Phật thừa" tại Đại Hội Pháp Hoa.  Cũng tương tự, đương lai Phật Thế Tôn cũng sẽ khai thị "không có nhiều Đạo mà chỉ có duy nhất một Đại Đạo là Thiên Đạo" tại Đại Hội Long Hoa.  Nhân Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo đều nằm trong Thiên Đạo, ngay cả Ma Đạo cũng không ngoại trừ. Vì vậy mới nói Thiên Đạo là Đại Đạo.

Pháp tạng bí mật của chư Phật không nằm ngoài pháp tạng bí mật của Thiên Đạo.  Đại Trí Huệ Phật chính là Đại Hoa Liên của Vô Cực Diêu Trì. Võ trụ vạn pháp phát sinh từ Như Lai Tạng hay Diệu Âm Quang hay Tiên Thiên Khí cũng chính là Hoa Thức của Kim Mẫu Huyền Không.  

 2500 năm trước Thích Ca Thế Tôn đã khải thị Diệu Pháp Hoa Liên.  2500 năm sau Di Lạc Thế Tôn sẽ khải thị Diệu Pháp Đại Hoa Liên.  2500 năm trước Thích Ca Thế Tôn đã qui tam thừa vào nhất thừa.  2500 sau Di Lạc Thế Tôn sẽ qui vạn giáo vào nhất giáo.  2500 năm trước Thích Ca Thế Tôn đã mở cửa bí mật để giáo chúng hiểu, hành, nhập Tri Kiến Phật. 2500 năm sau Di Lạc Thế Tôn sẽ mở cửa bí mật để giáo chúng hiểu, hành, nhập Tri Kiến Thiên Đạo Huyền Không."



Lưu xuất, ngày 27 tháng 11 năm 2017
Với các vị thiên phong của Giáo Hội Thiên Trường


"Sáu mươi năm trả nghiệp đời
Lênh đênh bể ngạn chơi vơi ái hà
Đâu màng hai chữ Long Hoa
Đâu mơ kỳ phận Thiên Tòa định phân
Dè đâu tỉnh giấc mộng trần
Gia trung Mẹ gọi nhập thần hóa Tiên
Lập Triều hội Địa Nhân Thiên
Diễn tuồng Ân Tứ long liên xứ người
Tuồng đời đã hết xinh tươi
Đàn Thiên khải khúc tả tơi địa cầu
Từ đây miết tới năm châu/trâu
Tang tang tịch tịch còn đâu tang tình
Tan tình mới ngộ huyền linh
Mới hay Thiên Quốc lập trình Huyền Không
Mang câu Bác Ái Đại Đồng
Chèo thuyền Thánh Đức lựa dòng Tân Dân
Bớ người thuyền đến các lân
Tây Lầu đổ bến lần khâng trể đò
Đò này chèo bởi Ông To
Cậy dầm bát nhã chẳng lo sóng thần
Bao nhiêu cũng đón cũng mầng
Mầng con của Mẹ trở chân quay về
Minh Thiên đã nặng câu thề
Thế gian chưa giác chưa về thiên ngai
Ô hô thương phận Đức Ngài
Hóa thân xuống thế ngày ngày lệ lau
Châu sa vì bởi lòng đau
Dân tình thế thái nát nhầu nghĩa nhân
Nay đương là lúc phong thần
Phong thiên phong địa phong trần Chiếu Quân.
Chiếu Quân này thị Từ huynh
Sắc truyền thập vạn hiền minh qui trào
Vạn Trời vạn Phật cột vào
Vô vi nhập lại một màu bạch chơn
Bạch màu Kinh Ngọc nguồn cơn
Chơn CànTrời quyết Thánh Nhơn lộ hình
Rồng vàng phun bạch thủy linh
Lão Hồng phủ điển vô hình khai tâm
Kim Bà phát sóng quang âm
Từ Tôn Vô Lực gieo mầm Thông Thiên
Báo cho nam nữ căn hiền
Tại trần đang có Phật Thiên hiện hình
Vô Vi Kỳ Đạo siêu linh
Huyền Không là cửa Thánh Minh lập đời. 



Lưu xuất, ngày 27 tháng 11 năm 2017 
Nói với các vị thiên phong của Giáo Hội Thiên Trường 

"Pháp giới rổng rang bổn thường hằng
Chẳng che chẳng mở chẳng lăng xăng
Chư pháp tới lui không ngăn ngại
Nhập chân pháp giới thiệt Thần Tăng.

Thần Tăng rõ pháp giới thường hằng
Chẳng tìm chẳng kiếm chẳng lăng xăng
Tới lui vô ngại như như thị
Từ Thị như như thiệt Thần Tăng.

Rõ tánh giới không, rõ tánh hằng
Không sanh, không chứng, thiệt huyền năng
Phật ma hai tướng cùng tịch diệt
Hỏi đâu tục tử với Thần Tăng?
  


Lưu xuất, ngày 28 tháng 11 năm 2017 
Nhắc nhở các vị thiên phong của Giáo Hội Thiên Trường

Là đấng Giác Hữu Tình
Quý mạng sống vạn linh
Hãy mở lòng Đại Bi
Trai giới và thanh tịnh.

Là đấng Giác Hữu Tình
Huyển vọng không để sinh
Hãy mở lòng Đại Bi
Trai giới và thanh tịnh.

Là đấng Giác Hữu Tình
Luôn an lạc hiền minh
Xin mở lòng Đại Bi
Trai giới và thanh thịnh.

Là đấng Giác Hữu Tình
Nguyện độ tận quần sinh
Xin mở lòng Đại Bi
Trai giới và thanh tịnh.

Thân trai giới thanh tịnh
Tâm trong sáng minh linh
Tánh như như bất động
Tam Bửu tại nơi mình.

Qui y Tăng thanh tịnh
Qui y Pháp minh linh
Qui y Phật như như
Sơn Bửu Kỳ Hương sinh.












No comments:

Post a Comment